Khái Quát Tỉnh Thừa Thiên Huế
I.
Điều kiện tự nhiên
1. Vị trí địa lý
Thừa
Thiên - Huế ở vào vị trí trung độ của cả nước, nằm giữa Thủ đô Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Trị, phía Nam giáp thành phố Đà Nẵng,
phía Tây giáp nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, phía Đông giáp biển Đông. Về
tổ chức hành chính, Thừa Thiên - Huế có 8 huyện và thành phố Huế với 150 xã,
phường, thị trấn.
2. Đặc điểm địa hình
Thừa
Thiên - Huế nằm trên một dải đất hẹp với chiều dài 127 km, chiều rộng trung
bình 60 km với đầy đủ các dạng địa hình rừng núi, gò đồi, đồng bằng duyên hải,
đầm, phá và biển tập trung trong một không gian hẹp, thấp dần từ Tây sang Đông,
phía Tây là dãy núi cao, phía giữa là đồi núi thấp và phía Đông là dải đồng bằng
nhỏ hẹp.
Phần
phía Tây chủ yếu là đồi núi chiếm tới 70% diện tích tự nhiên. Núi chiếm khoảng
¼ diện tích tự nhiên, nằm ở biên giới Việt – Lào và vùng tiếp giáp với Đà Nẵng.
Phần lớn các đỉnh núi có độ cao từ 800 đến hơn 1.000 m, trong đó có núi Bạch Mã
và Hải Vân là những địa danh du lịch nổi tiếng. Địa hình phần đồi phân bố chủ yếu
ở vùng trung du, trong các thung lũng, chiếm khoảng ¼ diện tích tự nhiên, độ
cao phần lớn dưới 500 m, có đặc điểm chủ yếu là đỉnh rộng, sườn thoải 20 - 250.
3. Khí hậu
Thừa
Thiên - Huế nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, mang tính chất chuyển tiếp từ
á xích đới lên nội chí tuyến gió mùa, chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp giữa
miền Bắc và miền Nam nước ta.
Thời
tiết chia thành hai mùa rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 11 với lượng
mưa trung bình từ 2.500 – 2.700 mm. Mùa khô kéo dài từ tháng 3 đến tháng 7, mưa
ít, lượng nước bốc hơi lớn, thường có mưa giông. Nhiệt độ trung bình hàng năm tại
Huế là 240C. Số giờ nắng trung bình 2.000 giờ/năm. Độ ẩm trung bình
84%. Số lượng bão khá nhiều, thường bắt đầu vào tháng 6, nhiều nhất là vào
tháng 9, 10.
II.
Tài nguyên thiên nhiên.
1. Tài nguyên đất
Thừa
Thiên - Huế có tổng diện tích đất tự nhiên là 505.398,9 ha với khoảng 10 loại đất
chính. Các loại đất có diện tích tương đối lớn là đất phù sa, đất đỏ vàng, đất
mùn vàng trên núi, đất cát, mặn… phân bố trên các vùng khác nhau. Quỹ đất đang
sử dụng vào phát triển cây nông nghiệp là 59.710 ha, chiếm 11,8% diện tích tự
nhiên. Đất canh tác cây hàng năm là 44.879 ha, chiếm 75,1% diện tích đất nông
nghiệp. Ngoài ra, còn có đất trồng cây lâu năm và đất vườn tạp; đồng cỏ tái tạo
dùng vào chăn nuôi và đất có mặt nước dùng vào nông - ngư nghiệp. Bình quân đất
nông nghiệp trên đầu người hiện nay là 564 m2. Tuy diện tích đất
chưa sử dụng năm 2000 là 193.559 ha, trong đó: đất bằng là 21.668, đất đồi núi
là 139.953 ha (chiếm 75% tổng diện tích đất chưa sử dụng), tạo nhiều khả năng mở
rộng diện tích trồng rừng nguyên liệu, cây công nghiệp, cây ăn quả như: cao su,
cà phê, dứa… nhằm tạo nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và trồng cây lâm
nghiệp, mở rộng diện tích rừng. Diện tích mặt nước chưa sử dụng là 26.183 ha có
thể khai thác để phát triển nuôi trồng thuỷ sản các loại.
2. Tài nguyên rừng
Thời
điểm năm 2002, toàn tỉnh có 234.954 ha đất lâm nghiệp có rừng, trong đó:
177.550 ha rừng tự nhiên và 57.395 ha rừng trồng. Diện tích rừng chia theo mục
đích sử dụng, rừng sản xuất là 62.778 ha, rừng phòng hộ 119.558 ha và rừng đặc
dụng 52.605 ha. Tổng trữ lượng gỗ toàn tỉnh khoảng 17,3 triệu m3. Hiện
nay, đất trống, đồi trọc còn khoảng 125 nghìn ha, chiếm 25% diện tích tự nhiên.
Đây là nguồn tài nguyên lớn tạo điều kiện thuận lợi cho tỉnh mở rộng diện tích
rừng trong những năm tới.
3. Tài nguyên khoáng sản.
Tài
nguyên khoáng sản của Thừa Thiên - Huế rất phong phú và đa dạng, với hơn 100 điểm
khoáng sản, trong đó có các loại chủ yếu như: đá vôi, đá granít, cao lanh,
titan, than bùn, sét, nước khoáng… Tổng trữ lượng đá vôi khoảng trên 1.000 triệu
tấn gồm các mỏ Long Thọ có trữ lượng khoảng 14 triệu tấn, Phong Xuân trữ lượng
khoảng 200 triệu tấn, Văn Xá trữ lượng khoảng 230 triệu tấn, Nam Đông khoảng
500 triệu tấn… Mỏ đá granit đen và xám ở Phú Lộc trữ lượng lớn. Cao lanh với tổng
trữ lượng khoảng trên 40 triệu tấn, tập trung chủ yếu ở A Lưới, Hương Trà. Các
mỏ cát với hàm lượng SiO2 trên 98,4% và trữ lượng khoảng trên 15 triệu
tấn được phân bổ nhiều nơi trong tỉnh. Titan có tổng trữ lượng khoảng trên 2
triệu tấn phân bổ dọc theo dải cát ven biển thuộc các huyện Quảng Điền, Phú
Vang, Phú Lộc. Các mỏ nước khoáng ở vùng Phong Điền, Phú Vang… đang được dùng để
sản xuất nước giải khát và phục vụ chữa bệnh.
III.
Tiềm năng du lịch
Tiềm
năng du lịch của Thừa Thiên - Huế khá phong phú, đa dạng, bao gồm các tài
nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn, có điều kiện để phát triển nhiều loại du lịch
phong phú như: du lịch văn hoá, du lịch sinh thái, du lịch biển, núi, du lịch
nghỉ dưỡng, thể thao…
Cảnh
quan thiên nhiên sông núi, rừng, biển rất kỳ thú và hết sức hấp dẫn với địa
danh nổi tiếng như: sông Hương, núi Ngự, đèo Hải Vân, núi Bạch Mã, cửa An Thuận,
bãi biển Lăng Cô, Cảnh Dương, đầm phá Tam Giang…
Cố
đô Huế là một trong những trung tâm văn hoá lớn của Việt Nam, hiện đang lưu giữ
một kho tàng vật chất đồ sộ, có quần thể di tích cố đô đã được UNESCO xếp hạng
di sản văn hoá thế giới với những công trình kiến trúc cung đình và danh lam thắng
cảnh nổi tiếng. Bên cạnh đó, Huế có hàng trăm chùa chiền với kiến trúc độc đáo
và một kho tàng văn hoá phi vật thể đồ sộ, các loại hình lễ hội tôn giáo, lễ hội
dân gian, lễ hội cung đình. Thừa Thiên - Huế còn lưu giữ được giữa lòng đô thị
Huế nhiều nhà vườn, phố cổ mang nét đặc trưng của vùng đất cố đô ở Vĩ Dạ, Kim
Long, Gia Hội, Bao Vinh. Đặc biệt, Thừa Thiên - Huế là nơi lưu giữ nhiều di chỉ,
hiện vật cổ của nền văn hoá Chăm. Mặt khác, đây cũng là nơi có truyền thống
cách mạng oanh liệt, còn giữ nhiều di tích liên quan đến cuộc đời hoạt động của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều nhà cách mạng tiền bối và nhiều địa danh lịch sử
về hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ như: chiến khu Dương
Hoà, Hoà Mỹ, A Lưới, đường mòn Hồ Chí Minh…
Biển Lăng Cô
Khu
du lịch Lăng Cô là một trong bốn vùng du lịch trọng điểm quốc gia. Với diện
tích gần 14.000 m2, địa điểm này kết hợp được vẻ hoang sơ của rừng núi và không
gian thoáng đãng của biển cả.
Nằm
gần khu du lịch sinh thái vườn quốc gia Bạch Mã, Lăng Cô kết hợp được không khí
hoang sơ của rừng núi và đặc trưng ồn ào, nhộn nhịp của vùng biển nhiều tàu
thuyền qua lại. Du khách đến với Lăng Cô theo nhiều nhóm khác nhau, người đến để
câu cá, lặn biển, người khác muốn leo núi, thăm rừng. Cũng có cả những du khách
lớn tuổi ghé Lăng Cô đơn giản là để tĩnh dưỡng. Con người hiền hòa, khí hậu lúc
mưa không mưa nhiều, khi nắng không nắng quá, cảnh quan trật tự, ngăn nắp. Khu
nghỉ dưỡng Lăng Cô có khoảng 70 phòng, trong đó 45 phòng là dạng biệt thự có kiến
trúc theo kiểu nhà vườn Huế. Cây xanh xen lẫn cảnh vật, nơi đây đầy đủ tiêu chuẩn
của khu nghỉ mát 4 sao. Với những du khách mới đến, từng nhịp cầu cong đặt bên
những chiếc ô che kiểu Hawaii, tán thông xanh mơ màng ngay cạnh những gốc cau cảnh...
mang một vẻ đẹp rạng ngời, giống y như màu nắng và màu cát trắng nơi đây.
Nếu
lấy vũng Chân Mây làm tâm điểm, quay một vòng tròn có bán kính 30km, ta sẽ có
được cả một vùng du lịch rộng lớn, đa dạng và khép kín. Ở đó có biển, có rừng,
có suối nước nóng Mỹ An chữa được nhiều bệnh, rồi lăng tẩm của các vị vua triều
Nguyễn, cả dòng Hương Giang văng vẳng giọng ca Huế trong đêm hoa đăng, và đàn
Nam Giao nơi các triều vua tế trời xin cho dân lành nước mạnh khi xưa.
Ở
Lăng Cô, ẩm thực của Huế và Đà Nẵng hòa hợp với nhau nhịp nhàngvà ăn ý. Món
bánh canh ngọt lịm vị chả cua, đĩa ghẹ luộc nguyên con đỏ au mời gọi, bát
bún riêu có thêm miếng càng cua đã bóc vỏ trắng muốt ăn cho vui miệng... Ăn
xong thì hiểu thế nào là miếng ngon nhớ đời.
Đặc Sản Bưởi Thanh Trà
Bưởi là đặc sản quý của nước ta, có giá trị dinh dưỡng
cao và có tác dụng tốt đối với sức khỏe con người. Trong một 100g phần ăn được
có: nước 89g, protêin 0,5g, chất béo 0,4g, tinh bột 9,3g, vitaminC 44g, ngoài
ra còn có narigin trong các hợp chất glucosid. Hiện nay tại Việt Nam có các giống
bưởi ngon, mang lại hiệu quả kinh tế cao như: bưởi Năm roi, Da xanh, Phúc Trạch,
Đoan Hùng, Diễn, Thanh Trà...
Khi
những ngày nắng hè ở đỉnh cao rồi hạ thấp dần…thấp dần bắc cầu qua mùa thu sớm,
thì đó cũng là mùa của các vườn bưởi Thanh trà ở Lương Quán, Nguyệt Biều, rồi
Kim Long, Hương Thọ Hương Hồ (ngoại thành thành phố Huế).
Để
nhận được trái bưởi Thanh Trà một cách cụ thể, đến nhà vườn có Thanh Trà ở
Lương Quán, Nguyệt Biều…rồi qua đò ở chùa Linh Mụ sang Hương Hồ, Kim Long… Vào
cuối tháng Bảy âm lịch, người mua sỉ Thanh Trà đến vườn hái quả. Bởi trước đó mấy
tháng người mua đã đến đặt tiền cọc, chủ vườn đã lấy tiền từ 50 hoặc 70 phần
trăm tổng giá bán cả vườn. Mùa Thanh Trà, thương lái mua tại vườn với giá ngang
ngửa là 8.000 đồng một quả. Còn ở chợ Bến Ngự, An Cựu các sạp bán với giá
10.000 đồng/quả. Mỗi trái lãi từ 800 đến 1000 đồng. Mua tại gốc là 8000 hay thấp
hơn một ít nhưng phải thuê hái rất công phu để bảo vệ cây cành, rồi còn vận
chuyển và bảo quản về đến chợ. Nhà vườn thanh trà hầu như quanh năm có mùi
hương đặc biệt, một cảm giác thanh thản từ lá cây.
Khi
Thanh Trà chưa ra hoa thì cây và lá thanh trà cũng có mùi thơm khá đặc biệt. Một
loại hương từ lá, từ nhựa của Thanh Trà, để rồi phát tiết trong mùa ra hoa và
lý giải vì sao vị ngọt, vị thơm của bưởi Thanh Trà lừng danh đến vậy! Còn khi
Thanh Trà ra hoa, từ xa mùi hương đã lan tỏa trong không gian rất dễ chịu. Càng
đến gần càng say, một mùi thơm không gắt gay, không quá ngạt ngào như mùi thơm
hoa sữa, hoa hồi hay loại hoa mống rồng quá đậm đặc. Mùi thơm của hoa Thanh Trà
dịu dàng, đoan trang, thoảng đưa như làn sóng dịu, thơm có biên độ trìu cảm con
người. Chính mùi thơm của lá, của hoa Thanh Trà kết tủa vào trái để có vị ngọt
trở thành loại trái đặc sản núi Ngự, sông Hương và cả nước.
Sân Bay Phú Bài
Sân bay quốc tế Phú Bài là sân bay phục vụ thành phố Huế tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam. Mã của
sân bay Phú Bài trong hệ thống du lịch IATA là HUI. Nằm ở phía Nam thành phố Huế cách trung tâm thành phố 15 km, thuộc thị trấn Phú Bài, huyện Hương
Thuỷ - tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Sân
bay quốc tế Phú Bài được xây dựng từ thời còn thực dân Pháp, người Pháp xây dựng
sân bay này nhằm phục vụ kinh thành Huế. Nó được sửa chữa nâng cấp nhiều lần
như kéo dài đường băng để tiếp nhận các máy bay lớn; hệ thống đường lăn, sân đỗ,
hệ thống thoát nước, hệ thống đèn dẫn đường.
Sân
bay quốc tế Phú Bài hiện có đường băng dài 2800 m, rộng 45 m, có đèn chiếu sáng
phục vụ các chuyên bay đêm.Sân bay này có thể tiếp nhận các máy bay tầm trung
như Airbus A320, Boeing 747. Năm 2006,
có 2.327 lượt chuyến bay cất, hạ cánh tại sân bay Phú Bài, với 428.000 lượt
hành khách.
Năm
2007, số lượng khách đạt hơn 500.000. Dự kiến năm 2010, số lượng khách thông
qua sân bay này sẽ vượt quá 1 triệu người. Sân bay này xếp thứ 4 tại Việt Nam về
số lượng khách (sân bay xếp thứ 5 là Sân bay quốc tế Cam Ranh với lượng khách xấp
xỉ 500.000 trong năm 2007 và có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn). Năm 2008, Sân bay quốc tế Cam Ranh đã phục vụ
683.000 lượt khách, vượt Sân
bay Phú Bài để thành sân bay lớn thứ 4 Việt Nam tính theo số lượng khách
thông qua.
Thành Phố Huế
Huế
là một thành phố ở miền Trung Việt Nam và là tỉnh
lị của tỉnh Thừa Thiên-Huế. Là kinh đô của Việt
Nam dưới các triều đại Tây Sơn và triều
Nguyễn, Huế nổi tiếng với những đền chùa, thành quách, lăng tẩm, kiến trúc gắn
liền với cảnh quan thiên nhiên.
Ngày
24 tháng 8 năm
2005 thành phố Huế được nâng từ
đô thị loại 2 lên đô thị loại 1 nhưng không trực thuộc trung ương mà trực thuộc
tỉnh Thừa Thiên Huế. Sau khi Huế được công nhận là đô thị
loại 1, Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã và đang lập đề án đưa cả tỉnh Thừa
Thiên Huế thành thành phố trực thuộc trung ương. Ngày
30/8/2007, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án xây dựng thành phố Huế thành
thành phố Festival.
Theo
đó, đề án có mục tiêu chung là xây dựng thành phố Festival mang tầm cỡ quốc gia
và quốc tế với đặc trưng của Việt Nam; đưa Huế trở thành thành phố du lịch
trong mối gắn kết hài hòa với thành phố Festival, làm động lực phát triển kinh
tế, góp phần đắc lực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thừa
Thiên - Huế và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Để
thực hiện đề án, ngoài nguồn vốn đầu tư cho các dự án của Trung ương trên địa
bàn, hằng năm ngân sách Trung ương sẽ hỗ trợ đầu tư thực hiện một số công trình
quan trọng trong mục tiêu xây dựng thành phố Festival. Thành phố Huế tọa lạc
hai bên bờ dòng sông Hương. Huế nằm ở phía bắc đèo Hải Vân, cách Đà Nẵng
112km.
Thành
phố Huế phía Bắc giáp tỉnh Quảng Trị, phía Nam giáp thành phố Đà Nẵng và tỉnh
Quảng Nam, phía Tây giáp nước CHDCND Lào, phía Đông được giới hạn bởi Biển
Đông.
Diện
tích tự nhiên 83.3 km2, dân số trung bình năm 2003 ước là 350.400
người, chiếm 1,5% về diện tích và 1,5% về dân số so với cả nước. Huế cách biển Thuận An 12 km,
cách sân bay Phú Bài 8 km, cách
Cảng nước sâu Chân Mây 50 km. Mật độ dân số gần
4200 người/km2.
Mùa
khô từ tháng 3 đến tháng 8, trời nóng nực oi bức, nhiệt độ có khi lên tới 35-40
độ C. Tháng 8 đến tháng 1 là mùa mưa, trong đó từ tháng 10 trở đi là mùa bão lụt,
nhiệt độ trung bình 20 độ C, có khi xuống thấp đến 9 độ C. Mùa xuân kéo dài từ
tháng 1 đến cuối tháng 2.
Tính Cách Người Huế
"
Con làm rứa, mạ buồn." hoặc " Em ơi, em về đi, em không về chị buồn
đó!" . Đấy là những lời các mẹ, các chị la em, nghe đến kỳ lạ, không thét
lên mà chỉ như năn nỉ. Bởi vậy mà những đứa con xứ Huế, rất sợ mình có lỗi, có
lỗi thì chị buồn, mạ buồn...
Người Huế thường giấu kín những khó khăn riêng của mình trước bạn bè, không để điều to tiếng, chuyện buồn đối với khách khứa láng giềng. Khi nhà có khách, có đong gạo nấu cơm cũng phải nhẹ tay, đừng để khách biết mình đong mấy lon cũng không để khách biết nhà mình hết gạo. Nếu có hết gạo thì đi cửa sau sang nhà hàng xóm mượn tạm. Vợ chồng có lỡ cãi nhau, có khách vào phải lau khô nước mắt, nét mặt phải trở lại bình thường.
Tính cách người Huế, được kết tinh và phát lộ qua ca dao, dân ca Huế, nó buồn và sâu lắng. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường có nhận xét rất tinh tế: dân ca Huế là dân ca của sông Hương, dân ca của ban đêm. Nếu ca Huế là lời ca giao đãi của người con gái chèo đò với những người bạn đang chèo những con đò xuôi ngược với những ai đó trên bờ sông, thì Lý Huế là lời tâm tình của những con người cùng chung một con đò với ngổn ngang tâm trạng: " Trước bến Văn Lâu, ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai mong" hay " Anh về ngoài Bắc lâu vô, vẽ tranh hoạ đồ để lại cho em."
Khi nói đến tính cách người Huế ta thường nói tới người phụ nữ Huế? bởi một lẽ, tính cách người phụ nữ người mẹ, người chị có ảnh hưởng rất lớn tới tính cách những người con, người em (trong đó có cả nam giới).
Người đàn ông Huế thường ít lời, trầm tư, ôn hoà, trân trọng đời sống nội tâm và có phần đa nghĩ.
Người Huế có văn hoá ẩm thực rất phong phú và kiểu cách. Cái bánh bột lọc trong suốt thấy rõ con tôm ở trong, nhân rõ nét hoa văn của cái đĩa đựng nó là sự nâng cao từ cái " péng lá" của người Việt cổ, người Mường ngày nay. Cũng như tôm chua Huế, có gốc tích từ Gò Công Nam Bộ, thịt luộc phải thái thật mỏng, khế chua xếp thật đẹp, các món ăn phải bày trên bát đĩa nho nhỏ, đơm cơm không quá đầy...
Sáu tháng mưa dầm, mưa đến " trắng trời" thì thực phẩm biển, núi đều cạn, phải chế biến món ăn như thế nào, đòi hỏi người nội trợ Huế, thật khéo léo để những người thân ăn thấy ngon miệng. Và một đức tính của người Huế trong ẩm thực là các món đều phải thật nóng, có vị cay, tanh, chát...
Trong cái mặc của người Huế, có thể thấy nét ảnh hưởng lối mặc cung đình. Trước đây, người phụ nữ Huế tiếp khách phải mặc áo dài, ra chợ dù phải gánh rau trên vai, gánh cơm hến cũng phải mặc áo dài. Với áo dài tím Huế, áo trắng nữ sinh Huế, chiếc nón bài thơ đã thành đối tượng của thi ca, nhạc, hoạ,…
Huế ở tâm điểm của miền trung đất nước lại có thêm thời kỳ hơn 200 năm là trung tâm chính trị của nhà nước phong kiến, từng thu hút nhân tôi, vật lực, giá trị văn hoá của cả nước. Huế có một khí hậu cực kỳ khắc nghiệt, nắng đến khô cằn mà khi mưa thì dầm dề, triền miên, khi thì xối xả, bởi vậy mà con người Huế yêu thiên nhiên đến vô cùng. Nhưng cũng chính mưa nhiều, nên người Huế có cảm giác cô đơn, cảm giác buồn. Điều đó có thể là nét nhược điệu trong tính cách người Huế. Nhưng đó cũng chính là yếu tố mà người ta không thể không nhắc đến khi nói tới tính cách Huế.
Người Huế thường giấu kín những khó khăn riêng của mình trước bạn bè, không để điều to tiếng, chuyện buồn đối với khách khứa láng giềng. Khi nhà có khách, có đong gạo nấu cơm cũng phải nhẹ tay, đừng để khách biết mình đong mấy lon cũng không để khách biết nhà mình hết gạo. Nếu có hết gạo thì đi cửa sau sang nhà hàng xóm mượn tạm. Vợ chồng có lỡ cãi nhau, có khách vào phải lau khô nước mắt, nét mặt phải trở lại bình thường.
Tính cách người Huế, được kết tinh và phát lộ qua ca dao, dân ca Huế, nó buồn và sâu lắng. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường có nhận xét rất tinh tế: dân ca Huế là dân ca của sông Hương, dân ca của ban đêm. Nếu ca Huế là lời ca giao đãi của người con gái chèo đò với những người bạn đang chèo những con đò xuôi ngược với những ai đó trên bờ sông, thì Lý Huế là lời tâm tình của những con người cùng chung một con đò với ngổn ngang tâm trạng: " Trước bến Văn Lâu, ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai mong" hay " Anh về ngoài Bắc lâu vô, vẽ tranh hoạ đồ để lại cho em."
Khi nói đến tính cách người Huế ta thường nói tới người phụ nữ Huế? bởi một lẽ, tính cách người phụ nữ người mẹ, người chị có ảnh hưởng rất lớn tới tính cách những người con, người em (trong đó có cả nam giới).
Người đàn ông Huế thường ít lời, trầm tư, ôn hoà, trân trọng đời sống nội tâm và có phần đa nghĩ.
Người Huế có văn hoá ẩm thực rất phong phú và kiểu cách. Cái bánh bột lọc trong suốt thấy rõ con tôm ở trong, nhân rõ nét hoa văn của cái đĩa đựng nó là sự nâng cao từ cái " péng lá" của người Việt cổ, người Mường ngày nay. Cũng như tôm chua Huế, có gốc tích từ Gò Công Nam Bộ, thịt luộc phải thái thật mỏng, khế chua xếp thật đẹp, các món ăn phải bày trên bát đĩa nho nhỏ, đơm cơm không quá đầy...
Sáu tháng mưa dầm, mưa đến " trắng trời" thì thực phẩm biển, núi đều cạn, phải chế biến món ăn như thế nào, đòi hỏi người nội trợ Huế, thật khéo léo để những người thân ăn thấy ngon miệng. Và một đức tính của người Huế trong ẩm thực là các món đều phải thật nóng, có vị cay, tanh, chát...
Trong cái mặc của người Huế, có thể thấy nét ảnh hưởng lối mặc cung đình. Trước đây, người phụ nữ Huế tiếp khách phải mặc áo dài, ra chợ dù phải gánh rau trên vai, gánh cơm hến cũng phải mặc áo dài. Với áo dài tím Huế, áo trắng nữ sinh Huế, chiếc nón bài thơ đã thành đối tượng của thi ca, nhạc, hoạ,…
Huế ở tâm điểm của miền trung đất nước lại có thêm thời kỳ hơn 200 năm là trung tâm chính trị của nhà nước phong kiến, từng thu hút nhân tôi, vật lực, giá trị văn hoá của cả nước. Huế có một khí hậu cực kỳ khắc nghiệt, nắng đến khô cằn mà khi mưa thì dầm dề, triền miên, khi thì xối xả, bởi vậy mà con người Huế yêu thiên nhiên đến vô cùng. Nhưng cũng chính mưa nhiều, nên người Huế có cảm giác cô đơn, cảm giác buồn. Điều đó có thể là nét nhược điệu trong tính cách người Huế. Nhưng đó cũng chính là yếu tố mà người ta không thể không nhắc đến khi nói tới tính cách Huế.
Ẩm Thực Huế
Ẩm thực
Huế là cách gọi của phương thức chế biến món ăn, nguyên lý chế biến,
trang trí, phong cách dọn ăn, mời uống và những thói quen ăn uống nói chung của
người Huế, Việt Nam.
Theo thời gian, ẩm thực Huế chịu ảnh hưởng của những luồng văn hoá đến từ những
cộng đồng dân cư khác nhau và những đặc thù của xứ sở nên mang những sắc thái
riêng trở thành một phần của văn hóa Huế, văn hoá Việt Nam.
Ẩm
thực Huế được biết đến qua thời gian bởi những gia đình có truyền thống nấu nướng,
những đầu bếp giỏi và những làng nghề nổi tiếng, với những món đặc sản địa
phương. Làng Kim Long với các loại
bánh in, bánh gấc, bánh phu thê, bánh ít đen...; làng bánh ướt
chợ Thông; làng bánh gói chợ Cầu.
Làng
Nam Phổ với món bánh canh Nam Phổ, làng
bún Vân Cù với những sợi bún trong và mềm đã theo chân người làng toả đi từ
tinh mơ để phục vụ bữa điểm tâm cho người dân Huế.
Tại
hội chợ Huế Xuân 2005, một hội thảo về văn hóa ẩm thực Huế, truyền thống và hiện
đại, đã được tổ chức trong ba ngày 15, 16, 17 tháng 1 năm 2005 với sự tham dự của
đông đảo nhà Huế học, nhà nghiên cứu văn hóa Huế, nhà văn, doanh nhân, giám đốc
các công ty du lịch, khách sạn, các chủ nhà hàng tư nhân nổi tiếng ở Huế. Hội
thảo cho thấy món ngon xứ Huế là một kết hợp hài hòa món ngon Chăm cổ với món
ngon Việt cổ, món ngon Mường cổ, món ngon dân gian Huế lâu đời và nhiều món
ngon nhất cả nước, được đưa về Phú Xuân Huế dâng chúa, tiến vua. Theo thống kê,
Việt Nam
có khoảng 1.700 món ăn thì xứ Huế có tới 1.300 món gồm: món ăn dân gian, món ăn
cung đình và món ăn chay.
Ẩm
thực Huế có một chiều sâu mang đậm nét bản sắc của một vùng đất từng là kẻ chợ,
thanh lịch, nhẹ nhàng và tùng tiệm. Người Huế ăn uống gắn liền với ba tiêu chí
là: rẻ, ngon và nhất là phải đẹp, người Huế đã chia ăn uống thành ba bậc: khẩu
thực, nhãn thực và tâm thực. "Khẩu thực" là cách ăn bằng miệng, để tồn
tại, "nhãn thực" là thưởng thức bằng mắt và "tâm thực",
nghĩa là ăn bằng cả tấm lòng mình.
Người
Huế ý thức rằng, nấu ăn phải nấu bằng cái tâm, do đó quy trình chế biến món ăn
phải thể hiện sự đồng bộ từ khâu lựa chọn thực phẩm, sơ chế, ướp tẩm gia vị, chế
biến qua nhiệt...để được một món ăn hoàn hảo.
Việc
sơ chế của người Huế trong nấu nướng nhằm đảm bảo những yêu cầu tối thiểu, là
phải loại bỏ những phần kém chất lượng, lưu dụng phần ngon; loại bỏ những thực
phẩm nhiễm bẩn; bảo lưu tối đa các chất dinh dưỡng và một phần quan trong nữa
là cắt thái đẹp, bảo lưu màu sắc tăng tính thẩm mỹ.
Một
số kinh nghiệm của người Huế trong việc sơ chế thực phẩm như là đối với cá, sau
khi đánh vảy, móc măng, làm ruột...thường rửa cá qua rượu gừng để khử tanh, khử nhớt và lau khô bằng
vải sạch trước khi tẩm ướt. Tôm cho dù có lột vỏ hay không nhưng phải nhớ rút bỏ
đường gân đen ở lưng để loại bỏ mùi tanh, lươn thì khi sơ chế phải làm sạch nhớt
và đừng quên loại bỏ ruột. Đối với
rau xanh, sạch thì không nên ngâm lâu trong nước vì mất chất, đối với rau củ
khi cắt gọt phải ngâm sâu trong nước để tránh bị tối màu. Các loại hạt khô phải ngâm nước cho trương nở giúp nấu
nhanh và loại bỏ hạt sâu, mọt hoặc sượng...
Cơm
nguội với những con hến nhỏ là vị chủ của cơm hến, hến được xào kèm theo bún
tàu (miến), măng khô và thịt heo thái chỉ. Món thứ ba trong cơm hến là rau sống
làm bằng thân chuối hoặc bắp chuối xắt mảnh như sợi tơ, trộn lẫn với môn bạc
hà, khế và rau thơm thái nhỏ, có khi còn điểm thêm những cánh bông vạn thọ
vàng, nhìn tươi mắt và có thêm mùi hương riêng. Nước luộc hến được múc ra từ
chiếc nồi bung bốc khói nghi ngút bằng chiếc gáo làm bằng sọ dừa xinh xắn, cho
vào đầy một cái tô đã có đủ cơm nguội, hến xào, rau sống và được gia thêm đủ vị
đồ màu. Nước hến có giã thêm gừng, màu trắng đùng đục. Bộ đồ màu của cơm hến gồm
10 vị: ớt tương, ớt màu, ruốc sống, bánh tráng nướng bóp vụn, muối rang, hạt đậu
phộng rang mỡ giã hơi thô thô, mè rang, da heo rang giòn, tóp mỡ, vị tinh.
Con
bún làm bằng gạo xay có pha ít bột lọc nên con bún trắng hơi trong và săn hơn,
con bún Huế lại to hơn các nơi khác. Một tô bún giò hay bún bò hấp dẫn thực
khách chính là nhờ chất nước ngon ngọt và thơm. Nước bún nấu với những miếng
móng giò heo mềm nhừ, với một chút màu trắng của những cọng giá và màu xanh của
rau sống, thêm gia vị để vừa cay, vừa nóng, vừa nghe vị ngọt của nước bún của
thịt.
Nguyên
liệu làm bánh chỉ là gạo xay thành bột mịn, đem trộn với nước, chờ vài phút để
có độ dẻo vừa phải, sau đó múc vào từng chén nhỏ, xếp vào vỉ đem hấp chín bằng
hơi. Khi bánh chín, cho thêm gia vị như: tôm giã thật nhỏ, một ít dầu béo thực
vật rưới lên chén bánh trước khi ăn. Nước chấm bánh bèo được nấu từ tôm tươi
nên vừa có vị ngọt, vừa béo.
Bánh
khoái đổ bằng bột gạo xay đánh sệt với nước và lòng đỏ trứng, sau đó thêm tiêu,
hành, mắm, muối, tôm bóc vỏ, thịt bò nướng thái lát, mỡ thái lát nhỏ, giá sống.
Khuôn bánh khoái làm bằng gang hình tròn, to bằng hai bàn tay trẻ con có cán cầm.
Khi nào có khách ăn, nhà hàng mới bắc khuôn lên lò đổ bánh. Múc một muôi bột trứng
đổ vào khuôn nóng đã tráng mỡ, bột chín vàng rơm thì gắp một miếng thịt bò nướng,
lát mỡ nhỏ, một vài con tôm, ít giá bỏ vào một nửa phần bánh, dùng đũa lật phần
bánh còn lại úp lên thành hình bán nguyệt lật bánh cho vàng đều hai bên, xong
bày ra đĩa. Bánh ngon một phần nhờ nước lèo, được chế biến rất cầu kỳ với hàng
chục nguyên liệu như bột báng, gan lợn, mè (vừng), lạc rang...
Được
làm từ những con tôm nước lợ tươi, tôm được ngắt đầu, rửa sạch, ngâm một lát
trong rượu. Sau đó vớt ra để ráo, trộn đều với các thứ phụ gia: riềng, tỏi, ớt
đỏ, măng non, xôi nếp, nước mắm ngon. Quá trình ủ tôm kéo dài từ 7-10 ngày, có
thể chôn xuống đất để giữ nhiệt độ ổn định cho quá trình lên men. Nhiệt độ càng
ổn định, tôm càng thơm, càng ngọt. Thưởng thức tôm chua phải có 3 thứ cơ bản đi
liền nhau: thịt heo phay (ba chỉ) thái mỏng-tôm chua-dưa giá. Ngoài ra còn có
quả vả hoặc chuối chát, khế chua thái mỏng cùng rau quế, ớt tươi.
Trường Quốc Học Huế
Trường
Quốc Học là một ngôi trường nổi
tiếng ở Huế. Trường được
thành lập vào ngày 23 tháng 10 năm 1896 theo chỉ dụ của vua Thành Thái
giao cho Ngô Đình Khả làm trưởng giáo và được Toàn quyền Đông Dương ký quyết định ngày 18
tháng 11 năm 1896.
Trường
Quốc học có biệt tích là trường trung học đệ nhất cấp đầu tiên ở Huế. Ngay từ
lúc sáng lập, giáo trình được dạy bằng tiếng Việt
cùng với tiếng
Pháp.
Trường
đã đổi tên qua nhiều thời kỳ: École Primaire Supérieure, tức Trường Cao đẳng Tiểu
học nhưng thường gọi là Quốc Học (1896-1936), Trung học Khải Định
(1936-1954), Trung học Ngô Đình Diệm (1955-1956) và được trở về với tên gốc
vào năm 1956 cho đến nay. Tên lúc mới thành lập là "Pháp Tự Quốc Học Trường
Môn", đến nay vẫn còn bảng ghi tên đó được lưu tại Phòng Truyền thống của
trường.
Quốc
Học được thành lập trên nền của Dinh Thủy Sư (nơi huấn luyện binh lính đường thủy
của quân đội triều Nguyễn), ban đầu trường được xây dựng theo kiểu cũ, nhà
tranh vách đất, tổng cộng có 3 tòa nhà. Trường Quốc Học hiện nay là công trình
được xây dựng theo kiểu kiến trúc Pháp, được xây dựng chủ yếu trong thời gian
sau này.
Nguyễn
Sinh Cung (Hồ Chí Minh) từng là học sinh của trường, Bác học tại Quốc Học năm
1908, tham gia nhiều vào các phong trào của sinh viên và học sinh chống Pháp
vào thời gian đó. Tháng 9 năm 1989,
trong sân trường có đặt bức tượng Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Sinh Cung) bằng thạch
cao ở giữa sân trường để tưởng nhớ người học trò này. Bức tượng hiện nay đã được
phủ đồng.
Sông Hương
Sông
Hương có hai nguồn chính và đều bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn. Dòng chính của Tả Trạch dài
khoảng 67 km, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn Đông, ven khu vực vườn quốc gia Bạch Mã chảy theo hướng tây
bắc với 55 thác nước hùng vĩ, qua thị trấn Nam Đông rồi
sau đó hợp lưu với dòng Hữu Trạch tại ngã ba Bằng Lãng (khoảng 3 km về
phía bắc khu vực lăng Minh Mạng). Hữu Trạch dài khoảng 60 km là
nhánh phụ, chảy theo hướng bắc, qua 14 thác nguy hiểm và vượt qua phà Tuần để tới ngã ba Bằng
Lãng, nơi hai dòng này gặp nhau và tạo nên sông Hương. Từ Bằng Lãng đến cửa sông Thuận An, sông
Hương dài 33 km và chảy rất chậm (bởi vì mực nước sông không cao hơn mấy so với
mực nước biển). Khi chảy quanh dọc chân núi Ngọc Trản, sắc nước
sông Hương xanh hơn – đây là địa điểm Điện Hòn Chén. Tại đây có một vực rất sâu.
Sông
Hương rất đẹp khi chiêm ngưỡng nó từ nguồn và khi nó chảy quanh các chân núi,
xuyên qua các cánh rừng
rậm và mang theo hương thơm của hệ thực vật nhiệt đới.
Con sông chảy chậm qua những làng mạc xanh tươi và râm mát như Kim Long, Nguyệt
Biều, Vỹ Dạ, Đông Ba, Gia Hội, chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh và hoà lẫn
vào với hương thơm của hoa cỏ Huế... Con sông với sắc xanh lung linh, trong trẻo
như một viên ngọc dưới ánh mặt trời.
Nó từng là nguồn cảm xúc của bao thế hệ du khách khi họ đi thuyền dọc theo sông
Hương để nhìn ngắm phong cảnh nên thơ và lắng nghe những điệu ca Huế truyền thống trong
đêm tĩnh mịch.
Núi Ngự Bình
Núi Ngự Bình
(còn gọi là Bằng sơn) cao 105 mét có hình dáng cân xứng và ấn tượng. Ở hai bên
Bằng Sơn là hai ngọn núi nhỏ tên là Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn. Sau khi quan sát
thấy Bằng Sơn trông giống như một tấm bình phong, nhà Nguyễn
đã quyết định chọn Huế làm nơi xây dựng Kinh thành. Vua Gia Long đã đồng ý với những
thầy địa lý chọn ngọn núi
đó làm án thờ phía trước của của hệ thống tường bao chắc chắn có chức năng bảo
vệ thành, và đổi tên nó là Ngự Bình.
Cùng
với sông Hương, núi Ngự Bình là một món quà vô giá thứ hai thiên nhiên dành cho
Huế. Sông núi bổ sung cho nhau tạo nên một cảnh quan sông núi tuyệt đẹp cho Huế.
Từ lâu, núi Ngự và sông Hương đã được coi là những biểu tượng của Huế, và mọi
người cũng thường gọi Huế là “Vùng đất của sông Hương và núi Ngự”.
Cầu Tràng Tiền
Cầu
Tràng Tiền gồm 6 vài, mỗi vài dài 66 thước 8 tấc 5 phân (mỗi thước mộc ta bằng
0,425 mét); rộng 6 thước 2 tấc. Tổng chiều dài cây cầu là 401 thước 1 tấc. Cầu
có 12 nhịp được thiết kế theo kiểu kiến trúc Gothique; mỗi nhịp có thành hình
bán nguyệt. Các nhịp kế tiếp nhau làm thành một dải sóng đều đặn, mềm mại như
làn nước sông Hương. Với kiểu kiến trúc cầu khá đẹp, hài hòa lại ở ví trí trung
tâm thành phố càng làm cho dòng Hương Giang và thành phố Huế thêm duyên dáng,
thơ mộng.
Cầu Tràng Tiền ban đầu làm bằng gỗ, còn mặt cầu thì lát bằng ván gỗ lim. Đến sau cơn bão lớn năm Giáp Thìn(1904) đã làm sập một vài sụp đổ xuống ngay tại chỗ, hai vài bay xuống sông ngang chợ Đông Ba, còn một vài bị cuốn trôi về tận Bãi Dâu. Qua trận bão, cầu bị hư hỏng nặng. Sau 2 năm (1904 – 1906), cầu Tràng Tiền được sửa chữa lại bằng sắt và xi măng rất kiên cố. Đến năm 1938, cầu được mở rộng thêm hai bên cho khách bộ hành đi lại thuận lợi thoáng mát. Trong thời kháng chiến chống Pháp, cầu bị đánh sập hai vài để ngăn chặn bước tiến quân của giặc sang sông đánh chiếm kinh thành Huế. Sau đó cầu được sửa chữa lại với hình dáng như cũ nhưng với ba vài sắt hoàn toàn mới. Thời chiến tranh (1968), cầu đã bị sập 2 vài. Sau đó, cầu được Hãng Eiffel chịu trách nhiệm sửa lại để lưu thông, nhưng có một vài chưa được thay thế. Mãi tới năm 1990-1991, Công ty Cầu 1 Thăng Long đảm nhận tiếp tục sữa chữa lại cầu Tràng Tiền. Riêng đối với vài số 4 của cầu này thì do tập đoàn Baudin Chateauneuf và hãng sơn Présiozo của Pháp lo liệu. Ngày 19-5-1995, lễ thông cầu được tổ chức trọng thể vào đúng ngày sinh nhật của Bác Hồ. Như vậy, cầu Tràng Tiền đã được tu sữa lại toàn bộ và nâng cấp độ vững chắc hơn trước. Tuy cấu trúc cầu có thay đổi một số chi tiết về dầm, gá níu chằng, nhưng hình dáng chiếc cầu vẫn đẹp như xưa.Về tên gọi chiếc cầu này cũng có thay đổi qua từng thời kỳ. Ban đầu, cầu có tên là cầu Thành Thái, vì cầu được xây dựng dưới thời vua Thành Thái thứ 9 (1897). Sau khi vua Thành Thái bị Pháp phế truất, Pháp cho đổi tên cầu thành cầu Clémenceau (Cơ- lê măng- Xô) là tên vị Thủ tướng nước Pháp có công trong Đại chiến thế giới lần thứ nhất. Đến năm 1945, Nội các Trần Trọng Kim cho đổi tên cầu này thành cầu Nguyễn Hoàng (vị chúa Nguyễn đầu tiên tới trị vì xứ Đằng Trong này). Mặc dầu qua bao thăng trầm biến cố lịch sử, chiếc cầu qua dòng Hương giang này đã mấy lần “thay tên, đổi họ”, nhưng dân chúng xứ Huế và khắp nơi trong cả nước đều gọi tên cầu Tràng Tiền. Cái tên thông dụng bao đời nay vẫn thấm sâu trong tâm thức của mọi người. Ngày xưa còn gọi là Trường Tiền vì vị trí cầu nằm gần sát bờ sông Hương, cạnh xưởng đúc tiền xu thời xa xưa (trường tiền là vùng đất trống rộng có xưởng đúc tiền).Chiếc cầu lịch sử này đã bao phen bị phong ba bão táp của thiên tai và hư hại tàn phá của chiến tranh. Cầu đã từng chứng kiến trước bao cảnh hưng vong, thăng trầm của đất nước qua các thời đại. Cầu Tràng Tiền là thắng cảnh nổi tiếng đã đi vào thơ ca dân gian xứ Huế từ bao đời nay và là đề tài vô tận của biết bao ca khúc trữ tình; là biểu tượng của Huế xưa và nay.
Cầu Tràng Tiền ban đầu làm bằng gỗ, còn mặt cầu thì lát bằng ván gỗ lim. Đến sau cơn bão lớn năm Giáp Thìn(1904) đã làm sập một vài sụp đổ xuống ngay tại chỗ, hai vài bay xuống sông ngang chợ Đông Ba, còn một vài bị cuốn trôi về tận Bãi Dâu. Qua trận bão, cầu bị hư hỏng nặng. Sau 2 năm (1904 – 1906), cầu Tràng Tiền được sửa chữa lại bằng sắt và xi măng rất kiên cố. Đến năm 1938, cầu được mở rộng thêm hai bên cho khách bộ hành đi lại thuận lợi thoáng mát. Trong thời kháng chiến chống Pháp, cầu bị đánh sập hai vài để ngăn chặn bước tiến quân của giặc sang sông đánh chiếm kinh thành Huế. Sau đó cầu được sửa chữa lại với hình dáng như cũ nhưng với ba vài sắt hoàn toàn mới. Thời chiến tranh (1968), cầu đã bị sập 2 vài. Sau đó, cầu được Hãng Eiffel chịu trách nhiệm sửa lại để lưu thông, nhưng có một vài chưa được thay thế. Mãi tới năm 1990-1991, Công ty Cầu 1 Thăng Long đảm nhận tiếp tục sữa chữa lại cầu Tràng Tiền. Riêng đối với vài số 4 của cầu này thì do tập đoàn Baudin Chateauneuf và hãng sơn Présiozo của Pháp lo liệu. Ngày 19-5-1995, lễ thông cầu được tổ chức trọng thể vào đúng ngày sinh nhật của Bác Hồ. Như vậy, cầu Tràng Tiền đã được tu sữa lại toàn bộ và nâng cấp độ vững chắc hơn trước. Tuy cấu trúc cầu có thay đổi một số chi tiết về dầm, gá níu chằng, nhưng hình dáng chiếc cầu vẫn đẹp như xưa.Về tên gọi chiếc cầu này cũng có thay đổi qua từng thời kỳ. Ban đầu, cầu có tên là cầu Thành Thái, vì cầu được xây dựng dưới thời vua Thành Thái thứ 9 (1897). Sau khi vua Thành Thái bị Pháp phế truất, Pháp cho đổi tên cầu thành cầu Clémenceau (Cơ- lê măng- Xô) là tên vị Thủ tướng nước Pháp có công trong Đại chiến thế giới lần thứ nhất. Đến năm 1945, Nội các Trần Trọng Kim cho đổi tên cầu này thành cầu Nguyễn Hoàng (vị chúa Nguyễn đầu tiên tới trị vì xứ Đằng Trong này). Mặc dầu qua bao thăng trầm biến cố lịch sử, chiếc cầu qua dòng Hương giang này đã mấy lần “thay tên, đổi họ”, nhưng dân chúng xứ Huế và khắp nơi trong cả nước đều gọi tên cầu Tràng Tiền. Cái tên thông dụng bao đời nay vẫn thấm sâu trong tâm thức của mọi người. Ngày xưa còn gọi là Trường Tiền vì vị trí cầu nằm gần sát bờ sông Hương, cạnh xưởng đúc tiền xu thời xa xưa (trường tiền là vùng đất trống rộng có xưởng đúc tiền).Chiếc cầu lịch sử này đã bao phen bị phong ba bão táp của thiên tai và hư hại tàn phá của chiến tranh. Cầu đã từng chứng kiến trước bao cảnh hưng vong, thăng trầm của đất nước qua các thời đại. Cầu Tràng Tiền là thắng cảnh nổi tiếng đã đi vào thơ ca dân gian xứ Huế từ bao đời nay và là đề tài vô tận của biết bao ca khúc trữ tình; là biểu tượng của Huế xưa và nay.
Nếu
ai có dịp treo lên đỉnh núi Ngự Bình mà nhìn về cầu Tràng Tiền thì thấy đẹp vô
cùng. Chiếc cầu như nàng tiên cá trắng nõn uốn mình nằm vắt ngang sông Hương
xanh biếc, trong ngân.
Vào
những đêm trăng sáng, bóng dáng chiếc cầu cứ lung linh, lấp loáng dưới lòng
sông như đùa giỡn với ánh trăng. Thỉnh thoảng có những chiếc thuyền xuôi ngược
được chèo lái qua dưới gầm cầu tạo nên những làn sóng nước vỗ vào chân cầu nghe
lao xao, êm dịu.
Chùa Thiên Mụ
Đến
nay Huế vẫn còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa, trong đó có nhiều ngôi chùa là những
danh lam thắng cảnh nổi tiếng, được xếp vào hàng quốc tự. Nói đến chùa Huế nhất
định phải nói đến một ngôi chùa nổi tiếng nhất của đất cố đô: chùa Thiên Mụ.
Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách
trung tâm thành phố Huế khoảng 5km về phía tây.
Chùa
Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng - vị
chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong. Đây có thể nói là ngôi chùa cổ nhất của Huế.
Chùa
Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên - Nguyễn Hoàng.
Dưới thời chúa Quốc - Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) theo đà phát triển và hưng thịnh
của Phật giáo xứ Đàng Trong, chùa được xây dựng lại quy mô hơn. Năm 1710, chúa
Quốc cho đúc một chiếc chuông lớn, nặng trên hai tấn, gọi là Đại Hồng Chung, có
khắc một bài minh trên đó. Đến năm 1714, chúa Quốc lại cho đại trùng tu chùa với
hàng chục công trình kiến trúc hết sức quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại
Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền... mà nhiều công
trình trong số đó ngày nay không còn nữa. Chúa Quốc còn đích thân viết bài văn,
khắc vào bia lớn (cao 2,6m, rộng 1,2m) nói về việc xây dựng các công trình kiến
trúc ở đây, việc cho người sang Trung Quốc mua hơn 1.000 bộ kinh Phật đưa về đặt
tại lầu Tàng Kinh, ca tụng triết lý của đạo Phật, ghi rõ sự tích Hòa thượng Thạch
Liêm - người có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo ở Đàng
Trong. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá rất lớn, trang trí đơn sơ nhưng
tuyệt đẹp.
Trước
thời điểm khởi lập chùa, trên đồi Hà Khê có ngôi chùa cũng mang tên Thiên Mỗ hoặc
Thiên Mẫu, là một ngôi chùa của người Chăm. Truyền thuyết kể rằng, khi chúa
Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích
thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng
giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ
sông Hương ngược lên phía đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên
dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn
lại, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê. Theo truyền thuyết, người dân địa
phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất
hiện trên đồi, nói với mọi người: “Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa
để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh”. Vì thế, nơi đây còn
được gọi là Thiên Mụ Sơn. Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt
nhịp được với ý nguyện của dân chúng. Nguyễn Hoàng cả mừng, vào năm 1601 đã cho
dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là “Thiên Mụ”.
Dựa
theo huyền thoại, đồng thời căn cứ hình dạng Hán tự từng ghi trên bao tài liệu
cấu tạo bằng nhiều chất liệu, đủ khẳng định rằng trong tên Thiên Mụ, ngữ tố
“Thiên” có nghĩa là “trời”. Năm 1862, dưới thời vua Tự Đức, để cầu mong có con
nối dõi, nhà vua sợ chữ “Thiên” phạm đến Trời nên cho đổi từ “Thiên Mụ” thành
“Linh Mụ” (“Bà mụ linh thiêng”). Vấn đề kiêng cữ như đã nêu chỉ diễn tiến từ
năm Nhâm Tuất (1862) cho tới năm Kỷ Tỵ (1869). Sau đó, người dân gọi cả hai
tên: chùa Thiên Mụ và chùa Linh Mụ. Vì rằng từ “Linh” đồng nghĩa với “Thiêng”,
âm người Huế khi nói “Thiên” nghe tựa “Thiêng” nên khi người Huế nói “Linh Mụ”,
“Thiên Mụ” hay “Thiêng Mụ” thì người nghe đều hiểu là muốn nhắc đến chùa này. Một
số người còn đặt tên cho chùa là Tiên Mụ (“Bà mụ thần tiên”).Với cảnh đẹp tự
nhiên và quy mô được mở rộng ngay từ thời đó, chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi
chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao biến cố lịch sử, chùa Thiên Mụ đã từng
được dùng làm đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng
tu tái thiết nhiều lần dưới triều các vua nhà Nguyễn. Năm 1844, nhân dịp mừng lễ
“bát thọ” của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu
Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: xây thêm một
ngôi tháp bát giác gọi là Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình Hương Nguyện
và dựng 2 tấm bia ghi lại việc dựng tháp, đình và các bài thơ văn của nhà vua.
Tháp
Phước Duyên là một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ. Tháp cao
21m, gồm 7 tầng, được xây dựng ở phía trước chùa vào năm 1844. Mỗi tầng tháp đều
có thờ tượng Phật. Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng,
nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng. Phía trước tháp là đình Hương Nguyện,
trên nóc đặt Pháp luân (bánh xe Phật pháp, biểu tượng Phật giáo. Pháp luân đặt
trên đình Hương Nguyện quay khi gió thổi). Trận bão năm 1904 đã tàn phá chùa nặng
nề. Nhiều công trình bị hư hỏng, trong đó đình Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn
(nay vẫn còn dấu tích). Năm 1907, vua Thành Thái cho xây dựng lại, nhưng chùa
không còn được to lớn như trước nữa. Hai bên tháp có hai nhà tứ giác, đặt hai tấm
bia đời Thiệu Trị. Sâu vào bên trong là hai nhà lục giác, một nhà để bia và một
nhà để quả chuông đúc đời chúa Nguyễn Phúc Chu.
Trong
khuôn viên của chùa Thiên Mụ là cả một vườn hoa cỏ được chăm sóc vun trồng hàng
ngày. Ở đó, hòn non bộ của vị tổ nghề hát tuồng Việt Nam là Đào Tấn được đặt gần
chiếc xe ô tô - di vật của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức để lại trước khi châm
lửa tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm
năm 1963. Cuối khu vườn là khu mộ tháp của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, vị trụ
trì nổi tiếng của chùa Thiên Mụ, người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho những
hoạt động ích đạo giúp đời.
Chùa
Thiên Mụ được xếp vào hai mươi thắng cảnh đất Thần kinh với bài thơ “Thiên Mụ
chung thanh” do vua Thiệu Trị sáng tác và được ghi vào bia đá dựng gần cổng
chùa. Qua nhiều đợt trùng tu lớn nhỏ, ngoài những công trình kiến trúc như tháp
Phước Duyên, điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm... cùng bia đá, chuông
đồng, chùa Thiên Mụ ngày nay còn là nơi có nhiều cổ vật quí giá không chỉ về mặt
lịch sử mà còn cả về nghệ thuật. Những bức tượng Hộ Pháp, tượng Thập Vương, tượng
Phật Di Lặc, tượng Tam Thế Phật... hay những hoành phi, câu đối ở đây đều ghi dấu
những thời kỳ lịch sử vàng son của chùa.
Chùa
Thiên Mụ là niềm tự hào của người dân xứ Huế và là một ngôi quốc tự nổi tiếng ở
nước ta. Hòa quyện với phong cảnh của một miền sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên
Mụ đã đi vào tâm thức của người dân bản xứ, tô đẹp cho Huế, gắn bó với Huế và
là một bộ phận không thể tách rời của Huế.
DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI CỐ ĐÔ HUẾ
Kinh Thành Huế
Kinh thành Huế nằm ở bờ bắc sông
Hương và thuộc địa phận Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Kinh thành Huế được xây dựng theo kiến trúc của phương Tây kết hợp một cách tài tình với kiến trúc thành quách phương Đông.
Huế từ xa xưa đã được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của xứ "Ðàng Trong" và chính thức trở thành kinh đô dưới triều Tây Sơn. Trong gần 4 thế kỷ, Huế đã trở thành một quần thể di tích kiến trúc và thắng cảnh vĩ đại, tổng thể di tích này đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.
Kinh thành Huế - tổng thể kiến trúc của Cố đô Huế được xây dựng trên một mặt bằng diện tích hơn 500ha và được giới hạn bởi 3 vòng thành theo thứ tự ngoài lớn, trong nhỏ: Kinh Thành, Hoàng Thành và Tử Cấm Thành.
Tổng thể kiến trúc này dùng núi Ngự Bình làm tiền án và dùng hai hòn đảo nhỏ trên sông Hương là Cồn Hến và Dã Viên làm 2 yếu tố phong thuỷ rồng chầu hổ phục (Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ) để bảo vệ Cố đô.
Kinh Thành Huế do vua Gia Long xây dựng từ năm 1805 và sau này được vua Minh Mạng tiếp tục hoàn thành vào năm 1832. Tại đó các vua triều Nguyễn đã cho xây dựng khá nhiều thành quách, cung điện và các công trình của hoàng gia. Trải qua gần 200 năm khu kinh thành hiện nay còn hầu như nguyên vẹn với gần 140 công trình xây dựng lớn nhỏ.
Kinh thành hình vuông với chu vi 10km, cao 6,6m, dày 21m, gồm có 10 cửa để ra vào. Xung quanh và ngay trên thành có thiết lập 24 pháo đài để phòng thủ. Ngoài ra còn có một cửa phụ thông với Trấn Bình Ðài gọi là Thái Bình Môn.
Hoàng Thành (Ðại Nội) nằm ở khoảng giữa kinh thành là nơi đặt các cơ quan cao nhất của chế độ quân chủ và là nơi thờ tự các vua chúa đã quá cố. Hoàng Thành có mặt bằng gần vuông, mỗi bề khoảng 600m, xây bằng gạch, cao 4m, dày 1m, xung quanh có hào bảo vệ, có 4 cửa để ra vào, riêng Ngọ Môn chỉ dành để cho vua đi. Ðại Nội gồm có hơn 100 công trình kiến trúc đẹp được chia ra nhiều khu vực:
Kinh thành Huế được xây dựng theo kiến trúc của phương Tây kết hợp một cách tài tình với kiến trúc thành quách phương Đông.
Huế từ xa xưa đã được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của xứ "Ðàng Trong" và chính thức trở thành kinh đô dưới triều Tây Sơn. Trong gần 4 thế kỷ, Huế đã trở thành một quần thể di tích kiến trúc và thắng cảnh vĩ đại, tổng thể di tích này đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.
Kinh thành Huế - tổng thể kiến trúc của Cố đô Huế được xây dựng trên một mặt bằng diện tích hơn 500ha và được giới hạn bởi 3 vòng thành theo thứ tự ngoài lớn, trong nhỏ: Kinh Thành, Hoàng Thành và Tử Cấm Thành.
Tổng thể kiến trúc này dùng núi Ngự Bình làm tiền án và dùng hai hòn đảo nhỏ trên sông Hương là Cồn Hến và Dã Viên làm 2 yếu tố phong thuỷ rồng chầu hổ phục (Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ) để bảo vệ Cố đô.
Kinh Thành Huế do vua Gia Long xây dựng từ năm 1805 và sau này được vua Minh Mạng tiếp tục hoàn thành vào năm 1832. Tại đó các vua triều Nguyễn đã cho xây dựng khá nhiều thành quách, cung điện và các công trình của hoàng gia. Trải qua gần 200 năm khu kinh thành hiện nay còn hầu như nguyên vẹn với gần 140 công trình xây dựng lớn nhỏ.
Kinh thành hình vuông với chu vi 10km, cao 6,6m, dày 21m, gồm có 10 cửa để ra vào. Xung quanh và ngay trên thành có thiết lập 24 pháo đài để phòng thủ. Ngoài ra còn có một cửa phụ thông với Trấn Bình Ðài gọi là Thái Bình Môn.
Hoàng Thành (Ðại Nội) nằm ở khoảng giữa kinh thành là nơi đặt các cơ quan cao nhất của chế độ quân chủ và là nơi thờ tự các vua chúa đã quá cố. Hoàng Thành có mặt bằng gần vuông, mỗi bề khoảng 600m, xây bằng gạch, cao 4m, dày 1m, xung quanh có hào bảo vệ, có 4 cửa để ra vào, riêng Ngọ Môn chỉ dành để cho vua đi. Ðại Nội gồm có hơn 100 công trình kiến trúc đẹp được chia ra nhiều khu vực:
Từ Ngọ
Môn đến Điện Thái Hoà: Nơi cử hành các lễ lớn của triều đình.
Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu
và Điện Phụng Tiên: Nơi thờ các vua chúa nhà Nguyễn.
Phủ Nội Vụ:
Nhà kho tàng trữ đồ quý, xưởng chế tạo đồ dùng cho hoàng gia.
Vườn Cơ Hạ
và Điện Khâm Văn: Nơi các hoàng tử học tập
và chơi đùa.
Tử Cấm
Thành:
Là vòng thành nằm trong Hoàng Thành
ngay sau lưng Điện Thái Hoà. Tử Cấm Thành dành riêng cho vua và gia đình vua. Tử
Cấm Thành được xây dựng năm 1804. Thành cao 3,72m xây bằng gạch, dày 0,72m, chu
vi khoảng 1.230m, phía trước và phía sau dài 324m, trái và phải hơn 290m, bao gồm
gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ và có 7 cửa ra vào. Ðại Cung Môn là cửa
chính ở mặt tiền chỉ dành cho vua đi vào. Cần Chánh (nơi vua làm việc hàng
ngày). Càn Thành (nơi vua ở), Cung Khôn Thái (chỗ ở của Hoàng Quý Phi). Duyệt
Thị Ðường (nhà hát), Thượng Thiện (nơi nấu ăn cho vua), Thái Bình Lâu (nơi vua
đọc sách)…
Ngoài ra Huế còn nổi tiếng bởi khu
lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn. Bảy lăng, mỗi lăng mang một sắc thái riêng
nhưng đều là những kỳ công tạo tác của con người phối hợp với cảnh trí thiên
nhiên hùng vĩ tươi đẹp và thơ mộng của xứ Huế.
Cố đô Huế với sông Hương, núi Ngự và các cung điện lâu đài, lăng tẩm, đền, miếu, chùa chiền đã có hàng mấy trăm năm lịch sử giờ đây đang được nhân dân Việt Nam cùng cộng đồng Quốc tế đóng góp công sức và tiền của để tôn tạo tu bổ giữ cho kiến trúc cố đô Huế mãi mãi là di sản văn hoá của nhân loại.
Cố đô Huế với sông Hương, núi Ngự và các cung điện lâu đài, lăng tẩm, đền, miếu, chùa chiền đã có hàng mấy trăm năm lịch sử giờ đây đang được nhân dân Việt Nam cùng cộng đồng Quốc tế đóng góp công sức và tiền của để tôn tạo tu bổ giữ cho kiến trúc cố đô Huế mãi mãi là di sản văn hoá của nhân loại.
Kỳ Đài
Kỳ Đài
còn gọi là Cột cờ là di tích kiến
trúc thời Nguyễn nằm chính giữa mặt nam của kinh
thành Huế thuộc phạm vi pháo đài Nam Chánh cũng là nơi treo cờ của triều
đình.
Kỳ
Đài được xây dựng vào năm Gia
Long thứ 6 (1807) cùng thời gian xây dựng kinh thành. Đến thời Minh Mạng, Kỳ
Ðài được tu sửa vào các năm 1829, 1831 và 1840.
Kỳ
Đài gồm hai phần: đài cờ và cột cờ.
-
Đài cờ:
Gồm
ba tầng hình chóp cụt chữ nhật chồng lên nhau. Tầng thứ nhất cao hơn 5,5 m, tầng
giữa cao khoảng 6 m, tầng trên cùng cao hơn 6 m. Tổng cộng của ba tầng đài cao
khoảng 17,5 m. Từ mặt đất lên tầng dưới bằng một lối đi nhỏ ở phía trái Kỳ Ðài,
tầng dưới thông với tầng giữa bằng một cửa vòm rộng 4 m, tầng giữa thông với tầng
trên cùng cũng bằng một cửa vòm rộng 2 m. Ðỉnh mỗi tầng có xây một hệ thống lan
can cao 1 m được trang trí bằng gạch hoa đúc rỗng. Nền ba tầng lát gạch vuông
và gạch vồ, có hệ thống thoát nước mưa xuống dưới. Trước đây còn có hai chòi
canh và tám khẩu đại bác.
-
Cột cờ:
Nguyên
xưa làm bằng gỗ, gồm hai tầng, cao gần 30 m. Năm Thiệu Trị
thứ 6 (1846), cột cờ được thay bằng một cây cột gỗ dài hơn 32 m. Đến năm Thành Thái
thứ 16 (1904), cột cờ này bị một cơn bão lớn quật gãy, nên sau phải đổi làm bằng
ống gang. Năm 1947, khi quân Pháp tái chiếm Huế, cột cờ lại bị pháo bắn gãy một
lần nữa. Năm 1948, cột cờ bằng bê tông cốt sắt với tổng chiều cao 37 m hiện nay mới được
xây dựng.
Thời
Nguyễn,
trong tất cả các dịp lễ tiết, chầu mừng, tuần du cho đến việc cấp báo đều có hiệu
cờ. Trên đỉnh cột cờ còn đặt một trạm quan sát gọi là Vọng Đẩu. Thỉnh thoảng,
lính canh phải trèo lên Vọng Đẩu dùng kính Thiên lý quan sát ngoài bờ biển.
Ngày
23/8/1945, sau khi Bảo Đại
thoái vị, lá cờ đỏ sao vàng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thay thế cho
là cớ hình quẻ ly của triều đình Nguyễn. Trong Sự kiện Tết Mậu Thân năm 1968, 8 giờ sáng ngày
31/1/1968 quân giải phóng miền Nam chiếm được kỳ đài
và lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam được kéo lên trong 26 ngày đêm.
Ngày
26/3/1975, sau khi giành thắng lợi trong Chiến dịch Huế - Đà Nẵng, lá cờ dài 12 m,
rộng 8 m của Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam lại được kéo lên kỳ đài.
Ngọ Môn
Ngọ Môn
là cổng chính phía nam của Hoàng
thành Huế. Hiện nay là một trong những di tích kiến trúc thời Nguyễn trong
quần thể di tích cố đô Huế.
Ngọ Môn, có nghĩa đen là Cổng giữa trưa
hay Cổng xoay về hướng Ngọ, là cổng
lớn nhất trong 4 cổng chính của Hoàng thành Huế.
Trước
kia tại vị trí này là Nam Khuyết Đài, xây dựng đầu
thời Gia Long. Trên đài
này có điện Càn Nguyên, hai bên có hai cửa là Tả Đoan Môn và Hữu Đoan Môn. Đến năm Minh Mạng
14 (1833) khi triều Nguyễn tổ chức qui hoạch lại toàn bộ mặt bằng kiến trúc
Hoàng thành, Nam Khuyết Đài bị giải thể
hoàn toàn để lấy chỗ xây dựng Ngọ Môn. Về mặt từ nguyên, Ngọ Môn có nghĩa là
chiếc cổng xây mặt về hướng Ngọ. Hướng này, theo quan niệm của địa lý phong thủy
phương Đông là hướng Nam. Hướng của Ngọ Môn cũng như toàn bộ Kinh thành Huế
trên thực tế là hướng càn - tốn (tây bắc - đông nam) nhưng vẫn được xem là hướng
Ngọ (hướng nam). Theo Dịch học hướng nam là hướng dành cho bậc vua Chúa để “nhi
thính thiên hạ, hướng minh nhi trị”.
Về
mặt kiến trúc Ngọ Môn có dáng dấp tương tự Thiên An môn ở Cố cung Bắc Kinh nhưng vẫn
thể hiện rõ phong cách kiến trúc dân tộc Việt Nam. Ngọ Môn có hai phần chính
là: đài - cổng và lầu Ngũ Phụng.
-
Phần đài – cổng
Có
bình diện hình chữ U vuông góc, đáy dài 57,77m, cạnh bên dài 27,06m. Đài được
xây bằng gạch đá kết hợp với các thanh dầm chịu lực bằng đồng thau. Đài cao gần
5m, diện tích chiếm đất hơn 1560m2 (kể cả phần trong lòng chữ U). Thân đài trổ
5 lối đi. Lối chính giữa là Ngọ Môn, chỉ dành cho vua đi. Hai lối bên là Tả
Giáp Môn và Hữu Giáp Môn, dành cho quan văn, võ theo cùng trong đoàn Ngự đạo.
Hai lối đi bên ngoài cùng nằm ở hai cánh chữ U là Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn,
dành cho binh lính và voi ngựa theo hầu.
-
Lầu Ngũ Phụng
Lầu
Ngũ phụng là phần lầu đặt ở phía trên đài - cổng. Ngoài phần thân đài, lầu còn
được tôn cao bởi một hệ thống nền cao 1,15m cũng chạy suốt thân đài hình chữ U.
Lầu có hai tầng, kết cấu bộ khung hoàn toàn bằng gỗ lim với chẳn 100 cây cột.
Mái tầng dưới nối liền nhau, chạy vòng quanh để che cho phần hồi lang. Mái tầng
trên chia thành 9 bộ, với rất nhiều hình chim phụng trang trí ở phần bờ nóc, bờ
quyết, khiến tòa lầu trông rất nhẹ nhàng, thanh thoát. Bộ mái chính giữa của lầu
Ngũ Phụng lợp ngói lưu ly màu vàng, tám bộ còn lại lợp ngói lưu ly màu xanh.
Ngọ
Môn cũng là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng. Nơi đây ngày xưa vẫn
thường diễn ra các lễ lạc quan trọng nhất của triều Nguyễn như lễ Ban sóc (ban
lịch mới), Truyền Lô (tuyên đọc tên tiến sĩ tân khoa)... Ngày 30 tháng 8 năm 1945, tại Ngọ Môn, vua Bảo Đại,
vị vua cuối cùng của Việt Nam, đã thoái vị và trao chính quyền lại cho chính phủ
lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Điện Thái Hoà Và Sân
Đại Triều Nghi
Ðiện
Thái Hoà nằm ngay trên đường xuyên tâm Hoàng Thành nhìn thẳng ra cửa Ngọ Môn
trong kinh thành Huế, Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Điện Thái Hoà là trung tâm quan trọng nhất của kinh thành, tại đây tổ chức các buổi lễ đại triều.
Ðiện Thái Hoà xây dựng năm 1805 đời Gia Long; năm 1806, Gia Long chính thức tổ chức lễ đăng quang tại điện này.
Năm 1833, vua Minh Mạng xây dựng Điện Thái Hoà ở chỗ hiện nay trên một nền cao 2,32m, toà điện dài 44m, sâu 30,5m, cao 11,8m, chính tịch 5 gian, hai chái, tiền tịch 7 gian hai chái, hai nếp nhà ghép lại với nhau, cột sơn son, vẽ rồng vàng, giữa bờ nóc gắn mảnh sứ nhiều màu, mái lợp ngói Hoàng Lưu Ly. Ở gian chính giữa có treo một bức hoành khắc đại tự “Thái Hòa Điện”, phía trong là ngai vàng để trên bệ ba tầng, phía trên trần rủ xuống một cái bửu tán thiếp vàng, thêu hình viên long. Trên trần mỗi lồng căn có treo lồng đèn gương hình lục giác, bát giác, các cạnh đính gương ngũ sắc.
Năm 1839, vua Minh Mạng cho sơn son thiếp vàng bộ tuồng gỗ điện làm tăng thêm phần huy hoàng cho ngôi điện lịch sử này. Năm 1899, vua Thành Thái cho lát gạch hoa theo kiểu Tây phương. Năm 1923, Khải Ðịnh cho làm hai lớp gương ở phía trước và phía sau. (Nguyên thuỷ Điện Thái Hoà để trống, chỉ có những bức sáo che).
Trong điện có trang hoàng một số ché và đồ xưa. Trước sân đặt một hàng đôn bằng đá chạm, trên mỗi đôn có một cái thống lớn trồng cây cảnh rất quí. Những người xây dựng Điện Thái Hoà đã tạo được hai nét đặc sắc: mùa hè vào điện thấy mát, mùa đông thì trái lại, rất ấm. Ngồi trên ngai ở trung tâm nghe rất rõ những tiếng nói từ các nơi trong điện.
Sân rộng trước điện gọi là sân Ðại Triều Nghi, lát đá Thanh, chia làm hai bậc: bậc trên dành cho các quan văn, quan võ ấn quan (từ Hàng tam phẩm trở lên chánh nhất phẩm). Hai bên sân có hai hàng trụ đá đề rõ phẩm trật để cho các quan xem đó mà sắp hàng cho thứ tự gọi là Phẩm Sơn.
Dưới cùng, gần cầu Trung Ðạo còn một hàng nữa dành cho các kỳ cựu hương lão, thích lý đến chầu trong những dịp khánh tiết. Hai góc sân có hai con Kỳ Lân bằng đồng thiếp vàng để trong lồng gương bằng gỗ sơn vàng. Hai con Kỳ Lân được trang trí ở hai góc sân có ý nghĩa là đời thái bình, đồng thời nó cũng là một biểu tượng nhắc nhở sự nghiêm chỉnh giữa chốn triều nghi.
Ngăn cách giữa cửa Ngọ Môn và sân Ðại Triều Nghi là hồ Thái Dịch Đào năm 1833. Cầu Trung Ðạo hai bên có lan can bắc qua hồ nối liền hai kiến trúc này với nhau.
Ở hai đầu cầu Trung Ðạo có dựng hai Phường Môn chạm nổi rồng năm móng (long vân đồng trụ), đường nét sắc sảo tinh vi. Tuy hai trụ bên đối xứng nhau nhưng một bên rồng vươn lên, một bên lao xuống vẫn tạo ra được sự sinh động hấp dẫn.
Ðiện Thái Hoà là nơi tổ chức những lễ lớn của triều đình như lễ lên ngôi, lễ phong Hoàng Thái Tử, lễ tiếp đón sứ thần nước lớn, lễ Vạn Thọ... Mỗi tháng có hai lần thiết đại triều ở đây, thường triều chỉ tổ chức ở điện Cần Chánh sau Ðại Cung Môn.
Khi thiết triều, vua đội mũ cửu long, mặc hoàng bào, lưng đeo đai, tay cầm hốt trầm quế, chân đi hia, uy nghi ngồi trên ngai vàng, các quan tứ trụ và những hoàng thân, quốc thích được đứng hai bên trong điện, còn toàn bộ các quan đều sắp hàng đứng ở ngoài sân theo phẩm trật như đã nêu trên.
Những buổi thiết đại triều thường tổ chức rất sớm, khi mặt trời lên thì thường đã xong.
Điện Thái Hoà là trung tâm quan trọng nhất của kinh thành, tại đây tổ chức các buổi lễ đại triều.
Ðiện Thái Hoà xây dựng năm 1805 đời Gia Long; năm 1806, Gia Long chính thức tổ chức lễ đăng quang tại điện này.
Năm 1833, vua Minh Mạng xây dựng Điện Thái Hoà ở chỗ hiện nay trên một nền cao 2,32m, toà điện dài 44m, sâu 30,5m, cao 11,8m, chính tịch 5 gian, hai chái, tiền tịch 7 gian hai chái, hai nếp nhà ghép lại với nhau, cột sơn son, vẽ rồng vàng, giữa bờ nóc gắn mảnh sứ nhiều màu, mái lợp ngói Hoàng Lưu Ly. Ở gian chính giữa có treo một bức hoành khắc đại tự “Thái Hòa Điện”, phía trong là ngai vàng để trên bệ ba tầng, phía trên trần rủ xuống một cái bửu tán thiếp vàng, thêu hình viên long. Trên trần mỗi lồng căn có treo lồng đèn gương hình lục giác, bát giác, các cạnh đính gương ngũ sắc.
Năm 1839, vua Minh Mạng cho sơn son thiếp vàng bộ tuồng gỗ điện làm tăng thêm phần huy hoàng cho ngôi điện lịch sử này. Năm 1899, vua Thành Thái cho lát gạch hoa theo kiểu Tây phương. Năm 1923, Khải Ðịnh cho làm hai lớp gương ở phía trước và phía sau. (Nguyên thuỷ Điện Thái Hoà để trống, chỉ có những bức sáo che).
Trong điện có trang hoàng một số ché và đồ xưa. Trước sân đặt một hàng đôn bằng đá chạm, trên mỗi đôn có một cái thống lớn trồng cây cảnh rất quí. Những người xây dựng Điện Thái Hoà đã tạo được hai nét đặc sắc: mùa hè vào điện thấy mát, mùa đông thì trái lại, rất ấm. Ngồi trên ngai ở trung tâm nghe rất rõ những tiếng nói từ các nơi trong điện.
Sân rộng trước điện gọi là sân Ðại Triều Nghi, lát đá Thanh, chia làm hai bậc: bậc trên dành cho các quan văn, quan võ ấn quan (từ Hàng tam phẩm trở lên chánh nhất phẩm). Hai bên sân có hai hàng trụ đá đề rõ phẩm trật để cho các quan xem đó mà sắp hàng cho thứ tự gọi là Phẩm Sơn.
Dưới cùng, gần cầu Trung Ðạo còn một hàng nữa dành cho các kỳ cựu hương lão, thích lý đến chầu trong những dịp khánh tiết. Hai góc sân có hai con Kỳ Lân bằng đồng thiếp vàng để trong lồng gương bằng gỗ sơn vàng. Hai con Kỳ Lân được trang trí ở hai góc sân có ý nghĩa là đời thái bình, đồng thời nó cũng là một biểu tượng nhắc nhở sự nghiêm chỉnh giữa chốn triều nghi.
Ngăn cách giữa cửa Ngọ Môn và sân Ðại Triều Nghi là hồ Thái Dịch Đào năm 1833. Cầu Trung Ðạo hai bên có lan can bắc qua hồ nối liền hai kiến trúc này với nhau.
Ở hai đầu cầu Trung Ðạo có dựng hai Phường Môn chạm nổi rồng năm móng (long vân đồng trụ), đường nét sắc sảo tinh vi. Tuy hai trụ bên đối xứng nhau nhưng một bên rồng vươn lên, một bên lao xuống vẫn tạo ra được sự sinh động hấp dẫn.
Ðiện Thái Hoà là nơi tổ chức những lễ lớn của triều đình như lễ lên ngôi, lễ phong Hoàng Thái Tử, lễ tiếp đón sứ thần nước lớn, lễ Vạn Thọ... Mỗi tháng có hai lần thiết đại triều ở đây, thường triều chỉ tổ chức ở điện Cần Chánh sau Ðại Cung Môn.
Khi thiết triều, vua đội mũ cửu long, mặc hoàng bào, lưng đeo đai, tay cầm hốt trầm quế, chân đi hia, uy nghi ngồi trên ngai vàng, các quan tứ trụ và những hoàng thân, quốc thích được đứng hai bên trong điện, còn toàn bộ các quan đều sắp hàng đứng ở ngoài sân theo phẩm trật như đã nêu trên.
Những buổi thiết đại triều thường tổ chức rất sớm, khi mặt trời lên thì thường đã xong.
Triệu Miếu
Triệu Tổ miếu
là một công trình kiến trúc trong Hoàng thành Huế. Triệu Tổ miếu được xây dựng
dưới thời vua thứ nhất của nhà Nguyễn, năm Gia Long thứ 3 (1804). Miếu này nằm ở
phía bắc của Thái Miếu, là miếu thờ Nguyễn Kim,
thân sinh của chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Miếu được xây trong một khuôn viên hình
chữ nhật, tường phía nam gắn liền với tường Thái Miếu. Bên trong điện chính đặt
án thờ Triệu Tổ Tĩnh Hoàng đế và Hoàng hậu. Mỗi năm tổ chức 5 lần tế tương tự ở
Thái Miếu. Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết.
Nguyễn Kim đã được triều Nguyễn truy tôn miếu hiệu cho ông là Triệu Tổ Về hình
thức và qui mô kiến trúc.
Miếu
gồm hai ngôi nhà 5 gian. Gian giữa đặt thần khám Nguyễn Kim và Hoàng hậu. Tả hữu
là Thần Khố và Thần Trù. Bên trong, trước án thờ có đặt sập chạm, trên trải chiếu
vàng, thờ hầu như đủ mọi thứ cho mọi người cần dùng hằng ngày: ve chén, khay
trà, gối dựa, khăn lau mặt, cơi trầu chén đũa…
Sân
Triệu Miếu được lát gạch, đặt nhiều chậu hoa, cây kiểng, những con nghê đồng để
thêu vàng mã, chân trụ đá để cắm tàu lọng trong những ngày tiết lễ. Giữa sân có
con đường Dõng Đạo, rộng chừng một thước, trong buổi lễ chỉ có vua đi đường
này, ai lỡ bước phạm con đường này sẽ bị tội phạm tất (phạm vào con đường cấm
khi vua xuất hành).
Triệu
Miếu nằm sau Thái
Miếu, ngăn cách bởi một bức bình phong. Xung quanh có tường bao bọc.
Có các cửa Tập Khánh ở phía trước và Diễn Khánh ở bên phải.
Hưng Miếu
Hưng Miếu
hay Hưng Tổ Miếu là ngôi miếu thờ
Thế tử Nguyễn Phúc Luân (hay Nguyễn Phúc Côn) và bà Nguyễn Thị Hoàn - song thân của vua Gia Long, vị trí ở tây nam
Hoàng thành (cách Thế Miếu
chừng 50 mét về phía Bắc). Ngôi miếu hiện được dùng để thờ.
Nguyễn
Phúc Luân, đáng lẽ sẽ là người lên ngôi chúa, nhưng trong nội bộ chúa Nguyễn có
loạn quyền thần Trương Phúc Loan nên ông bị giam vào ngục và mất tại
nhà riêng. Tuy mất sớm (32 tuổi): nhưng ông đã để lại đến 6 người còn trai và 4
người con gái, trong đó có Nguyễn
Phúc Ánh, tức Gia Long - vị hoàng đế đầu tiên của Triều Nguyễn sau này.
Sau
khi lên ngôi Hoàng đế năm 1802,
vua Gia Long tìm lại mộ phần của phụ thân và xây dựng một ngôi miếu để thờ phụng.
Theo sách sử triều Nguyễn, việc xây dựng được hoàn tất chỉ trong 4 trên địa điểm
của Thế Miếu
ngày nay, chính thức sử dụng từ tháng 3 năm 1805, ngôi miếu khi ấy có tên là Hoàng Khảo Miếu.
Đến
năm 1821, vua Minh Mạng cho dời Hoàng Khảo Miếu lùi về phía sau địa điểm cũ 50m
để sử dụng khu đất của Hoàng Khảo Miếu xây Thế Miếu. Sau khi hoàn tất ông cho đổi
tên khu miếu thành Hưng Tổ Miếu.
Năm 1950, Bảo Đại
về Huế mua lại An Khánh Vương từ, vốn là nơi thờ một người dòng
dõi hoàng tộc là An Khánh Vương Nguyễn
Phúc Quang (con vua Gia
Long) để xây dựng lại thành Hưng Miếu mới. Năm 1951, Hưng Miếu mới được tái
lập. Năm 1995, nó được trùng tu lại một lần nữa. Trong lần này miếu được sơn
son thiếp vàng.
Kiến trúc của Hưng Miếu hiện tại có nền
tảng từ An Khánh Vương từ. Nhưng vì mặt bằng của Hưng Miếu
cũ nhỏ hơn An Khánh Vương từ nên khi xây dựng người ta buộc phải dời hai hàng cột
mỗi bên và cắt bớt một số mái ở cả hai bên.
Trên một mặt bằng gần như vuông: 19m x
19,20m người ta cấu trúc tòa nhà theo thức trùng diêm và trùng lương của các
cung điện khác ở Huế. Miếu là một ngôi nhà kép chừng 400m2 mái được
lợp bằng ngói âm dương men vàng, nền cao 0,68 m bó bằng đá Thanh.
Toàn bộ dàn trò gồm 9 hàng cột tính từ
trước đến sau và 8 hàng cột tính từ trái sang phải, kê chân trên đá tảng cùng với
các mảng trang trí đều được làm bằng gỗ quý: lim, sao, kền kền, huê mộc. Tất cả các kèo điều được
trang rất tinh xảo, mặt dưới và mặt trên đều được trạm trổ hoa lá và hình ảnh
có tác dụng làm các bộ phận gỗ trở nên nhẹ nhàng. Các cột trốn tuy nhỏ, nhưng
hai đầu được đẽo vuốt vào rồi nở ra hình hoa sen, rất ăn khớp với nhau. Giữa 2
cột trốn của mồi vì kéo còn dựng thêm các khung gỗ được chạm lộng hình kỷ hà với
kích cỡ khác nhau thay đổi theo từng tầng.
Hệ thống liên ba chia làm 4 tầng mỗi tầng
phân khoảng thành các ô hộc được trang trí theo lối “Nhất thi Nhất họa” khắc nổi
nhiều chủ đề: đôi sáo, đàn tỳ, pho sách .. đôi chỗ còn có cả cây kiếm và cây
như ý.
Mặt dưới mặt tiền hạ doanh được trang
trí một dải bản gỗ hình chữ U chia ra làm ô hộc với lối trang trí giống hệ thống
nhất liên hạ.
Hai gian áp chót đối xứng nhau dưới trần
thừa lưu, có hai bức đố bằng gỗ được chạm nổi, chạm lộng, chạm kênh bông ở cả
hai mặt trong và ngoài, ở chính giữa mỗi mặt là hình ảnh nổi của một trong 8 bát bửu.
Đằng trước miếu có một hàng cột gồm
sáu cái đứng trên mặt sân được xây bằng xi măng giả đá. Ở đầu cột chắp hình hoa
sen đỡ lấy con-xơn (console).
Phần chính doanh gồm có 3 gian và 2
kép, tiền doanh có 5 gian và 2 chái đơn. Mặt trước của mỗi chái đơn mà mộ mảng
tường xây được trang trí chữ "thọ" cách điệu, có tác dụng tăng tính
chịu lực.
Sân trước Hưng Miếu có hình
chữ nhật (20m x 18,45m) được lát gạch Bát Tràng. Giữa sân là đường thần đạo
lát bằng đá thanh, chạy từ bậc thềm ra đến Miếu môn phía trước rộng 2,15m. Song
song với hàng cột hiên là dãy các chậu sứ trồng cây cảnh mỗi chậu đặt trên đôn
bằng đá gồm 6 cái. Bên phải sân có một cái lư dùng để đốt tờ sớ.
Bên phải trái trong khuôn viên Hưng Miếu
còn có hai ngôi nhà Thần Khố (nhà kho của Thần) và Thần Trù (nhà bếp của Thần).
Các khuôn viên được bao bọc bằng một bức tường cao xây bằng gạch với 4 cửa đối
xứng từng cặp: Chương Khánh, Dục Khánh, Trí Tướng và Ứng Tường. Bên trái khuôn
viên hiện vẫn còn 2 bia đá: bia đá dựng năm 1804 khắc bài văn Ngự chế của Gia
Long và bia đá dựng năm 1821 khắc bài văn Ngự chế của Minh Mạng nói lại lịch sử
xây dựng Hưng Miếu và Thế Miếu.
HIỂN LÂM CÁT
Hiển
Lâm Các được xây dựng phía trước Thế Miếu, phía tây nam Hoàng Thành, Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Đây là công trình kiến trúc cao nhất trong Hoàng Thành. Đây được coi như một đài lưu niệm ghi công những công thần đã sáng lập ra triều Nguyễn.
Hiển Lâm Các được xây dựng từ năm (1821 - 1822) thời vua Minh Mạng được xây dựng trên khối nền cao hình chữ nhật, lát gạch Bát Tràng, xây bó bằng gạch vồ, vôi vữa và đắp nổi mảnh sành để trang trí. Từ dưới bước lên mặt nền bằng hai hệ thống bậc cấp đá Thanh, ở trước và sau mỗi hệ thống có 9 cấp bậc. Hai bên thành bậc cấp đắp hình rồng ở giữa là giới hạn lối đi giành riêng cho vua.
Hiển Lâm Các được kiến trúc bằng gỗ cao tầng. Mặt bằng tầng một chia làm ba gian hai chái. Quanh ba mặt ngoài của hai chái xây tường gạch để gia cố sức chịu lực của các hàng cột quân và bao che bớt phần nội thất. Ở hàng cột 3 tính từ mặt trước, dựng một dãy đố bản, giữa mỗi gian trổ một cửa vòm. Các hệ thống kèo, liên ba, đố bản ở tầng này đều chạm nổi các mô típ hình rồng cách điệu hoá thành dây leo lá cuốn. Trên cửa giữa treo tấm hoành phi lớn đề ba chữ "Hiển Lâm Các" trên nền sơn màu lục, khung chạm 9 con rồng vờn mây sơn son thếp vàng.
Gian bên phải bắc chiếc cầu thang lên tầng trên. Cầu thang được trang trí rất đẹp. Hai tay vịn chia thành các ô hộc trang trí hình chữ "thọ", chữ "vạn" và đường nét kỷ hà. Ðầu và cuối tay vịn đều chạm nổi hình đầu và đuôi rồng uốn lượn mềm mại...
Đây là công trình kiến trúc cao nhất trong Hoàng Thành. Đây được coi như một đài lưu niệm ghi công những công thần đã sáng lập ra triều Nguyễn.
Hiển Lâm Các được xây dựng từ năm (1821 - 1822) thời vua Minh Mạng được xây dựng trên khối nền cao hình chữ nhật, lát gạch Bát Tràng, xây bó bằng gạch vồ, vôi vữa và đắp nổi mảnh sành để trang trí. Từ dưới bước lên mặt nền bằng hai hệ thống bậc cấp đá Thanh, ở trước và sau mỗi hệ thống có 9 cấp bậc. Hai bên thành bậc cấp đắp hình rồng ở giữa là giới hạn lối đi giành riêng cho vua.
Hiển Lâm Các được kiến trúc bằng gỗ cao tầng. Mặt bằng tầng một chia làm ba gian hai chái. Quanh ba mặt ngoài của hai chái xây tường gạch để gia cố sức chịu lực của các hàng cột quân và bao che bớt phần nội thất. Ở hàng cột 3 tính từ mặt trước, dựng một dãy đố bản, giữa mỗi gian trổ một cửa vòm. Các hệ thống kèo, liên ba, đố bản ở tầng này đều chạm nổi các mô típ hình rồng cách điệu hoá thành dây leo lá cuốn. Trên cửa giữa treo tấm hoành phi lớn đề ba chữ "Hiển Lâm Các" trên nền sơn màu lục, khung chạm 9 con rồng vờn mây sơn son thếp vàng.
Gian bên phải bắc chiếc cầu thang lên tầng trên. Cầu thang được trang trí rất đẹp. Hai tay vịn chia thành các ô hộc trang trí hình chữ "thọ", chữ "vạn" và đường nét kỷ hà. Ðầu và cuối tay vịn đều chạm nổi hình đầu và đuôi rồng uốn lượn mềm mại...
Thế Miếu
Thế Miếu là nơi thờ cúng các vua
Nguyễn. Đây là một trong những công trình to lớn bậc nhất so với các miếu, điện
ở Việt Nam.
Năm 1804, Gia Long cho xây dựng miếu Hoàng Khảo ở vị trí của Thế Miếu ngày nay để thờ cha mình là Nguyễn Phúc Luân. Sau khi vua Gia Long mất, Minh Mạng lên nối ngôi, năm 1821 ông đã cho dời miếu Hoàng Khảo lui về phía sau vài chục mét, đổi thành Hưng Miếu, còn xây Thế Miếu vào vị trí ấy vào năm 1821 - 1822 để thờ vua Gia Long, và các vua kế vị về sau.
Thế Miếu được xây dựng trên mặt bằng 1.500m² , cũng là toà nhà kép theo kiểu "trùng thiềm, trùng lương" như Ðiện Thái Hoà. Tiền doanh ( nhà trước) có 11 gian và chính doanh (nhà sau) có 9 gian.
Hai doanh nối với nhau bằng trần vỏ cua. Tất cả có chung một đường mà ngăn riêng từng thất tức là cùng một toà nhà mà chia ra nhiều ngăn, một gian thiết trí, một án thờ giành cho một vị vua.
Nền Thế Miếu cao, ngày xưa lát gạch men Bát Tràng màu vàng và lục. Qua các lần tu sửa trước năm 1975, nền tiền doanh được lát lại bằng gạch hoa tráng men vàng, nền chính doanh tráng xi măng. Các cột kèo, đòn tay, liên ba, đố bản đều sơn thếp nhưng màu sắc nay đã phai úa đi nhiều... Chỉ có các khám thờ và án thờ còn giữ được màu sơn son thếp vàng. Trước mỗi khám thờ đều treo một bức sáo để che.
Bộ mái trước kia lợp ngói ống men vàng (hoàng lưu ly) nay đã thay bằng ngói thường. Trên nóc nhà trước chắp bằng pháp lam ngũ sắc. Các bờ nóc, bờ quyết đều đắp hình rồng nhưng đơn giản...
Nội thất Thế Miếu, cho đến giữa thế kỷ 20 (1954) chỉ có 7 án thờ, mỗi án một gian, các gian thừa để trống.
Năm 1804, Gia Long cho xây dựng miếu Hoàng Khảo ở vị trí của Thế Miếu ngày nay để thờ cha mình là Nguyễn Phúc Luân. Sau khi vua Gia Long mất, Minh Mạng lên nối ngôi, năm 1821 ông đã cho dời miếu Hoàng Khảo lui về phía sau vài chục mét, đổi thành Hưng Miếu, còn xây Thế Miếu vào vị trí ấy vào năm 1821 - 1822 để thờ vua Gia Long, và các vua kế vị về sau.
Thế Miếu được xây dựng trên mặt bằng 1.500m² , cũng là toà nhà kép theo kiểu "trùng thiềm, trùng lương" như Ðiện Thái Hoà. Tiền doanh ( nhà trước) có 11 gian và chính doanh (nhà sau) có 9 gian.
Hai doanh nối với nhau bằng trần vỏ cua. Tất cả có chung một đường mà ngăn riêng từng thất tức là cùng một toà nhà mà chia ra nhiều ngăn, một gian thiết trí, một án thờ giành cho một vị vua.
Nền Thế Miếu cao, ngày xưa lát gạch men Bát Tràng màu vàng và lục. Qua các lần tu sửa trước năm 1975, nền tiền doanh được lát lại bằng gạch hoa tráng men vàng, nền chính doanh tráng xi măng. Các cột kèo, đòn tay, liên ba, đố bản đều sơn thếp nhưng màu sắc nay đã phai úa đi nhiều... Chỉ có các khám thờ và án thờ còn giữ được màu sơn son thếp vàng. Trước mỗi khám thờ đều treo một bức sáo để che.
Bộ mái trước kia lợp ngói ống men vàng (hoàng lưu ly) nay đã thay bằng ngói thường. Trên nóc nhà trước chắp bằng pháp lam ngũ sắc. Các bờ nóc, bờ quyết đều đắp hình rồng nhưng đơn giản...
Nội thất Thế Miếu, cho đến giữa thế kỷ 20 (1954) chỉ có 7 án thờ, mỗi án một gian, các gian thừa để trống.
Cửu Đỉnh
Cửu Đỉnh đặt dưới bóng Hiển Lâm Các,
trước sân Thế Miếu ở phía tây nam Hoàng Thành, thuộc Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên -
Huế.
Cửu Ðỉnh là chín cái đỉnh đồng lớn nhất Việt Nam đúc năm 1836 thời Minh Mạng, mỗi đỉnh có một tên riêng ứng với miếu hiệu của một vị hoàng đế thờ trong Thế Miếu.
Cửu Ðỉnh - chín cái đỉnh có những đặc điểm riêng:
Cao Ðỉnh dành cho vua Thế Tổ Cao Hoàng Ðế (tức Gia Long), Nhân Đỉnh dành cho Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế (tức Minh Mạng), Chương Ðỉnh, Anh Ðỉnh, Nghị Ðỉnh, Thuần Ðỉnh, Tuyên Ðỉnh dành cho các vua kế tiếp là Thiệu Trị, Tự Ðức, Kiến Phước, Ðồng Khánh, Khải Ðịnh. Cho đến năm 1958 trong Thế Miếu chỉ có 7 án thờ nên mới dùng 7 đỉnh, còn hai đỉnh Dụ và Huyền chưa dùng đến.
Mới nhìn 9 đỉnh hình như giống nhau, nhưng trong thực tế chúng đều khác nhau: khác nhau về trọng lượng, khác nhau về bộ chân, cũng như bộ quai ở trên. Nhưng cái khác nhau đặc biệt nhất là 17 hình chạm chung quanh mỗi đỉnh.
Ứng với các án thờ bên trong Thế Miếu, Cửu Ðỉnh từ hồi mới đúc xong đã được đặt vào chỗ như ta thấy hiện nay: Cao Ðỉnh đứng giữa một mình ở hàng trước, các đỉnh khác đứng thẳng hàng ở phía sau theo vị trí cứ một cái bên trái thì đến một cái bên phải đối xứng nhau qua đỉnh trung tâm: Nhân Cương, Anh Nghị, Thuần Tuyên và Dũ Huyền.
Mười bảy hình chạm nổi chung quanh mỗi đỉnh gồm những gì tiêu biểu của đất nước từ Lạng Sơn xuống tận mũi Cà Mau và được qui lại trong các chủ đề: tinh tú, sông núi, biển cả, thuyền bè, xe cộ, các sản vật quí giá trên rừng, dưới biển của nước Việt Nam đầu thế kỷ 20.
Minh Mạng đúc Cửu Ðỉnh với mục đích tượng trưng đế quyền của dòng họ.
Cửu Ðỉnh là chín cái đỉnh đồng lớn nhất Việt Nam đúc năm 1836 thời Minh Mạng, mỗi đỉnh có một tên riêng ứng với miếu hiệu của một vị hoàng đế thờ trong Thế Miếu.
Cửu Ðỉnh - chín cái đỉnh có những đặc điểm riêng:
Cao Ðỉnh dành cho vua Thế Tổ Cao Hoàng Ðế (tức Gia Long), Nhân Đỉnh dành cho Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế (tức Minh Mạng), Chương Ðỉnh, Anh Ðỉnh, Nghị Ðỉnh, Thuần Ðỉnh, Tuyên Ðỉnh dành cho các vua kế tiếp là Thiệu Trị, Tự Ðức, Kiến Phước, Ðồng Khánh, Khải Ðịnh. Cho đến năm 1958 trong Thế Miếu chỉ có 7 án thờ nên mới dùng 7 đỉnh, còn hai đỉnh Dụ và Huyền chưa dùng đến.
Mới nhìn 9 đỉnh hình như giống nhau, nhưng trong thực tế chúng đều khác nhau: khác nhau về trọng lượng, khác nhau về bộ chân, cũng như bộ quai ở trên. Nhưng cái khác nhau đặc biệt nhất là 17 hình chạm chung quanh mỗi đỉnh.
Ứng với các án thờ bên trong Thế Miếu, Cửu Ðỉnh từ hồi mới đúc xong đã được đặt vào chỗ như ta thấy hiện nay: Cao Ðỉnh đứng giữa một mình ở hàng trước, các đỉnh khác đứng thẳng hàng ở phía sau theo vị trí cứ một cái bên trái thì đến một cái bên phải đối xứng nhau qua đỉnh trung tâm: Nhân Cương, Anh Nghị, Thuần Tuyên và Dũ Huyền.
Mười bảy hình chạm nổi chung quanh mỗi đỉnh gồm những gì tiêu biểu của đất nước từ Lạng Sơn xuống tận mũi Cà Mau và được qui lại trong các chủ đề: tinh tú, sông núi, biển cả, thuyền bè, xe cộ, các sản vật quí giá trên rừng, dưới biển của nước Việt Nam đầu thế kỷ 20.
Minh Mạng đúc Cửu Ðỉnh với mục đích tượng trưng đế quyền của dòng họ.
Lăng Minh Mạng
-
Giới thiệu
tổng quát
Lăng Minh Mạng hay Hiếu Lăng thuộc địa
phận núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế, gần ngã
ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch tạo thành sông Hương chảy
qua Tp. Huế. Lăng cách Tp. Huế 12km.
Lăng Minh Mạng là một tổng thể kiến trúc quy mô gồm khoảng 40 công trình lớn nhỏ. Lăng Minh Mạng toát lên vẻ đường bệ, uy nghiêm nhưng rất hài hòa giữa các công trình kiến trúc và thiên nhiên.
Tháng 4/1840, vua Minh Mạng đổi tên núi Cẩm Kê thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu Lăng. Lăng được khởi công xây dựng vào tháng 9/1840.
Ðến tháng 1/1841 công trình đang xúc tiến thì Minh Mạng lâm bệnh mất, vua Thiệu Trị lên nối ngôi và tiếp tục cho xây dựng lăng theo đúng thiết kế cũ. Tháng 8/1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành. Ðến năm 1843 thì việc xây lăng mới hoàn tất.
Lăng Minh Mạng là một tổng thể kiến trúc qui mô gồm khoảng 40 công trình lớn nhỏ gồm Cung điện, Lâu đài, Đình tạ... được bố trí cân đối trên một trục dọc từ Ðại Hồng Môn (ở ngoài cùng) tới chân tường của La Thành sau mộ vua.
Lăng Minh Mạng là một tổng thể kiến trúc quy mô gồm khoảng 40 công trình lớn nhỏ. Lăng Minh Mạng toát lên vẻ đường bệ, uy nghiêm nhưng rất hài hòa giữa các công trình kiến trúc và thiên nhiên.
Tháng 4/1840, vua Minh Mạng đổi tên núi Cẩm Kê thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu Lăng. Lăng được khởi công xây dựng vào tháng 9/1840.
Ðến tháng 1/1841 công trình đang xúc tiến thì Minh Mạng lâm bệnh mất, vua Thiệu Trị lên nối ngôi và tiếp tục cho xây dựng lăng theo đúng thiết kế cũ. Tháng 8/1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành. Ðến năm 1843 thì việc xây lăng mới hoàn tất.
Lăng Minh Mạng là một tổng thể kiến trúc qui mô gồm khoảng 40 công trình lớn nhỏ gồm Cung điện, Lâu đài, Đình tạ... được bố trí cân đối trên một trục dọc từ Ðại Hồng Môn (ở ngoài cùng) tới chân tường của La Thành sau mộ vua.
-
Tiểu sử vua Minh Mạng
Minh Mạng tên huý là Nguyễn Phúc Ðảm, sinh ngày 23 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789), là con thứ của Gia Long. Tháng giêng năm Canh Thìn (1820),Thái tử Ðảm lên ngôi Vua, niên hiệu là Minh Mạng.
Minh Mạng có tư chất thông minh, hiếu học, năng động và quyết đoán. Minh Mạng đặt ra lệ: các quan ai được thăng điện, bổ nhiệm...đều phải đến kinh đô gặp Vua, để Vua hỏi han công việc, kiểm tra năng lực và khuyên bảo...
Là người tinh thâm nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mạng rất quan tâm đến học hành, khoa cử, tuyển chọn nhân tài, năm 1821 cho dựng Quốc Tử Giám, đặt chức Tế Tửu và Tư Nghiệp, mở lại thi Hội và thi Ðình, trước 6 năm một khoa thi, nay rút xuống 3 năm.
Minh Mạng cũng rất quan tâm đến võ bị, nhất là thuỷ quân, nên đã sai người tìm hiểu cách đóng tàu của châu Âu và ước vọng làm sao cho người Việt đóng được tàu kiểu Tây Âu và biết lái tàu vượt đại dương.
Minh Mạng đã hoàn chỉnh hệ thống đê điều ở Bắc Bộ, đặt quan khuyến nông, khai hoang ven biển Bắc Bộ lập thêm hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải.
Về đối ngoại, Minh Mạng đặc biệt chú ý thần phục nhà Thanh, nhưng lại lạnh nhạt và nghi kỵ đối với các nước phương Tây do vậy đã kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Minh Mạng có rất nhiều vợ nên đã có 78 hoàng tử và 64 công chúa, tổng cộng 142 người con.
Tháng 12 năm 1840, Minh Mạng ốm nặng rồi mất, trị vì được 20 năm, thọ 50 tuổi.
Minh Mạng tên huý là Nguyễn Phúc Ðảm, sinh ngày 23 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789), là con thứ của Gia Long. Tháng giêng năm Canh Thìn (1820),Thái tử Ðảm lên ngôi Vua, niên hiệu là Minh Mạng.
Minh Mạng có tư chất thông minh, hiếu học, năng động và quyết đoán. Minh Mạng đặt ra lệ: các quan ai được thăng điện, bổ nhiệm...đều phải đến kinh đô gặp Vua, để Vua hỏi han công việc, kiểm tra năng lực và khuyên bảo...
Là người tinh thâm nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mạng rất quan tâm đến học hành, khoa cử, tuyển chọn nhân tài, năm 1821 cho dựng Quốc Tử Giám, đặt chức Tế Tửu và Tư Nghiệp, mở lại thi Hội và thi Ðình, trước 6 năm một khoa thi, nay rút xuống 3 năm.
Minh Mạng cũng rất quan tâm đến võ bị, nhất là thuỷ quân, nên đã sai người tìm hiểu cách đóng tàu của châu Âu và ước vọng làm sao cho người Việt đóng được tàu kiểu Tây Âu và biết lái tàu vượt đại dương.
Minh Mạng đã hoàn chỉnh hệ thống đê điều ở Bắc Bộ, đặt quan khuyến nông, khai hoang ven biển Bắc Bộ lập thêm hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải.
Về đối ngoại, Minh Mạng đặc biệt chú ý thần phục nhà Thanh, nhưng lại lạnh nhạt và nghi kỵ đối với các nước phương Tây do vậy đã kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Minh Mạng có rất nhiều vợ nên đã có 78 hoàng tử và 64 công chúa, tổng cộng 142 người con.
Tháng 12 năm 1840, Minh Mạng ốm nặng rồi mất, trị vì được 20 năm, thọ 50 tuổi.
-
Bố
cục kiến trúc lăng
Lăng
Minh Mạng có bố cục kiến trúc cân bằng đối xứng, xung quanh một trục kiến trúc
là đường thần đạo, xuyên qua một loạt các hạng mục công trình gồm: cửa chính,
sân chầu, nhà bia, sân tế, Hiển Đức môn, điện Sùng Ân, hồ Trừng Minh, Minh Lâu,
hồ Tân Nguyệt, cổng tam quan Quang Minh Chính Trực, cầu Trung Đạo và cuối cùng
là Bửu thành.
Lăng
có diện tích 18 ha nhưng diện tích cấm địa quanh lăng là 475 ha, xung quanh
lăng có La thành bao bọc. Cửa chính của lăng tên là Đại Hồng Môn, là cửa chỉ để
rước linh cữu của vua nhập lăng.
Hai
bên cửa chính là hai cửa Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn. Hồ Trừng Minh gồm hai nửa
nối thông với nhau ở phía sau điện Sùng Ân nơi có ba cây cầu đá bắc qua, giống
như hai lá "phổi xanh", bao bọc lấy điện Sùng Ân và các kiến trúc
vòng ngoài nằm trên trục thần đạo (khu vực tưởng niệm).
Ở
giữa hai hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt, trên đường thần đạo, là Minh Lâu. Hồ Tân
Nguyệt hình vầng trăng non ôm lấy một phần khu mộ vua.
Bửu
thành là một quả đồi thông hình tròn, bao quanh bởi tường thành, bên trong, sâu
bên dưới là mộ vua. Ở chính giữa hồ Tân Nguyệt có một cây cầu mang tên Trung Đạo
kiều, nối Minh Lâu với Bửu thành và đường dạo quanh lăng. Phía sau Bửu thành là
rừng thông xanh thẳm, đem lại một cảm giác u tịch.
Trên
mặt cắt kiến trúc dọc theo đường thần đạo, các công trình cao thấp theo một nhịp
điệu vần luật nhất quán, âm dương xen kẽ, tạo nên nét đẹp riêng cho công trình
kiến trúc lăng tẩm này.
Bố
cục kiến trúc đăng đối của các hạng mục chính trong lăng đem lại cho lăng một vẻ
uy nghiêm cần có của công trình lăng mộ. Tuy vậy, ở ngoài rìa, men theo con đường
dạo quanh co vòng quanh hai hồ nước và viền xung quanh lăng, xen lẫn với cây cối
có các công trình kiến trúc nhỏ dùng để nghỉ chân ngắm cảnh như: đình Điếu Ngư,
gác Nghênh Phong, hiên Tuần Lộc, sở Quan Lan, Tạ Hư Hoài ... làm cho toàn bộ quần
thể lăng uy nghiêm nhưng vẫn hài hòa với thiên nhiên và duyên dáng tráng lệ.
Trong
khoảng diện tích được giới hạn bởi vòng La thành dài 1.750m là một quần thể kiến
trúc gồm cung điện, lâu đài, đình tạ được bố trí đăng đối trên một trục dọc
theo đường Thần đạo dài 700 m, bắt đầu từ Đại Hồng Môn đến chân La thành sau mộ
vua. Hình thể lăng tựa dáng một người nằm nghỉ trong tư thế thoải mái, đầu gối
lên núi Kim Phụng, chân duỗi
ra ngã ba sông ở trước mặt, hai nửa hồ Trừng Minh như đôi cánh tay buông xuôi tự
nhiên.
-
Miêu
tả chi tiết
Từ
ngoài vào trong, các công trình được phân bố trên ba trục song song với nhau mà
Thần đạo là trục trung tâm. Xen giữa những công trình kiến trúc là hồ nước ngát
hương sen và những quả đồi phủ mượt bóng thông, tạo nên một phong cảnh vừa hữu
tình vừa ngoạn mục.
Mở
đầu Thần đạo là Đại Hồng Môn, cổng chính vào lăng, xây bằng vôi gạch, cao hơn
9m, rộng 12m. Cổng này có ba lối đi với 24 lá mái lô nhô cao thấp và các đồ án
trang trí cá chép hóa rồng, long vân... được coi là tiêu biểu của loại cổng tam
quan đời Nguyễn.
Cổng
chỉ mở một lần để đưa quan tài của vua vào trong lăng, sau đó được đóng kín, ra
vào phải qua hai cổng phụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn.
Sau
Đại Hồng Môn là Bái Đình, lát gạch Bát Tràng (sân rộng 45 x 45 m), hai bên có
hai hàng tượng quan văn võ, voi ngựa bằng đá đứng chầu. Cuối sân là Bi Đình tọa
lạc trên Phụng Thần Sơn, bên trong có bia “Thánh đức thần công” bằng đá Thanh
ghi bài văn bia của vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công đức của vua cha. Một
khoảng sân rộng tiếp theo chia làm bốn bậc lớn nhằm giảm bớt cảm giác choáng ngợp
của con người trước sự mênh mông của kiến trúc, đó là sân triều lễ.
Hiển
Đức Môn mở đầu cho khu vực tẩm điện, được giới hạn trong một lớp thành hình
vuông biểu trưng mặt đất (từ ý niệm trời tròn, đất vuông).
Điện
Sùng Ân nằm ở giữa được coi là trung tâm, chung quanh có Tả, Hữu Phối Điện (trước)
và Tả, Hữu Tùng Phòng (sau) như những vệ tinh chung quanh. Trong điện thờ bài vị
của vua và bà Tá Thiên Nhân Hoàng hậu.
Hoằng
Trạch Môn là công trình kết thúc khu vực tẩm điện, mở ra một không gian của hoa
lá và mây nước phía sau. Tất cả những công trình mang tính hiện thực dường như
dừng lại ở khu vực tẩm điện. Từ đây, bắt đầu một thế giới mới đầy thư nhàn,
siêu thoát và vô biên. 17 bậc thềm đá Thanh đưa du khách vào khoảng trời xanh
mát bóng cây và ngát thơm mùi hoa dại.
Ba
chiếc cầu: Tả Phù (trái), Trung Đạo (giữa), Hữu Bật (phải) bắc qua hồ Trừng
Minh như dải lụa xanh, đưa du khách đến Minh Lâu - một công trình như đột khởi
từ quả đồi có tên là Tam Tài Sơn.
Minh
Lâu nghĩa là lầu sáng, nơi nhà vua suy tư vào những đêm hè trăng thanh gió mát,
là nơi đi về của linh hồn tiên đế, là dấu chấm vuông kết thúc một thế giới hữu
hạn, là “bộ ngực kiêu hãnh” của
“con người” được ví bởi hình
dáng của khu lăng.
Minh
Lâu là sự thể hiện cách lý giải về vũ trụ và nhân sinh quan của người xưa. Tòa
nhà này hình vuông, hai tầng, tám mái, là một biểu trưng của triết học phương
Đông. Hai bên Minh Lâu, về phía sau là hai trụ biểu uy nghi dựng trên Bình Sơn
và Thành Sơn mang ý nghĩa nhà vua đã “bình thành công đức” trước khi về cõi
vĩnh hằng.
Một
cái hồ hình trăng non tên là Tân Nguyệt ôm lấy Bửu Thành. Đây là hình ảnh của
thế giới vô biên. Hồ hình trăng non ví như yếu tố “Âm” bao bọc, che chở cho yếu tố “Dương” là Bửu Thành - biểu tượng của mặt trời. Kết cấu kiến trúc
này thể hiện quan niệm của cổ nhân về sự biến hóa ra muôn vật. Đó là nhân tố
tác thành vũ trụ.
Cầu
Quang Minh Chính Trực bắc ngang hồ Tân Nguyệt có 33 bậc tầng cấp dẫn vào nơi
yên nghỉ của nhà vua, nằm giữa tâm một quả đồi mang tên Khải Trạch Sơn, được giới
hạn bởi Bửu Thành hình tròn. Hình tròn này nằm giữa những vòng tròn đồng tâm biểu
trưng, được tạo nên từ hồ Tân Nguyệt, La Thành, núi non và đường chân trời như
muốn thể hiện khát vọng ôm choàng trái đất và ước muốn làm bá chủ vũ trụ của vị
vua quá cố.
Bên
cạnh hàng loạt các công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cao
còn có gần 600 ô chữ chạm khắc các bài thơ trên Bi Đình, Hiển Đức Môn, điện
Sùng Ân và Minh Lâu cũng là những tuyệt tác vô giá. Đó là một “bảo tàng thơ” chọn
lọc của nền thi ca Việt Nam đầu thế kỷ 19.
-
Hiện
trạng
Kiến
trúc Lăng có phần đổ nát nhưng mức độ nhẹ hơn so với số phận của những Lăng
khác , một phần nhờ vào việc Lăng có giá trị về nhiều mặt . Những cây sứ nhiều
năm tuổi công với vẻ hoang toàn mặc cho rêu phong theo chủ ý của Ban bảo vệ di
tích cố đô Huế và quy tắc bắt buộc của UNESCO nhằm không trùng tu các di sản cố ý để tạo nét nguyên
sơ làm cho di tích càng có giá trị. Hiện nay Lăng thu hút du khách đông nhất
sau Lăng Tự Đức.
Lăng Tự Đức
-
Giới thiệu tổng quát
Lăng
Tự Ðức hay Khiêm Lăng tọa lạc tại xã Thủy Biều, Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Lăng được xây dựng vào năm 1864 và hoàn thành vào năm 1867 trên diện tích 475ha. Khác với các lăng được xây dựng cân đối, lăng Tự Đức được xây dựng phóng khoáng, hài hoà với thiên nhiên có sẵn phản ánh tâm hồn lãng mãn của vị vua thi sĩ này.
Lăng Tự Đức là một quần thể công trình kiến trúc, trong đó có nơi chôn cất vua Tự Đức tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh, nay là thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau cuộc nổi loạn Chày Vôi, Tự Đức bèn đổi tên thành Khiêm Cung. Sau khi Tự Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng. Lăng Tự Đức có kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn.
- Tiểu sử vua Tự Đức
Lăng được xây dựng vào năm 1864 và hoàn thành vào năm 1867 trên diện tích 475ha. Khác với các lăng được xây dựng cân đối, lăng Tự Đức được xây dựng phóng khoáng, hài hoà với thiên nhiên có sẵn phản ánh tâm hồn lãng mãn của vị vua thi sĩ này.
Lăng Tự Đức là một quần thể công trình kiến trúc, trong đó có nơi chôn cất vua Tự Đức tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh, nay là thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau cuộc nổi loạn Chày Vôi, Tự Đức bèn đổi tên thành Khiêm Cung. Sau khi Tự Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng. Lăng Tự Đức có kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn.
- Tiểu sử vua Tự Đức
Vua
Tự Đức tên húy là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm,
ngoài ra còn có tên là Nguyễn Phúc Thì
. Ông là con thứ hai của vua Thiệu Trị và bà quí phi Phạm Thị Hằng, sinh
ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu, tức 22 tháng 9 năm 1829. Vua Tự Đức lên ngôi tháng 10 năm Đinh Mùi,
1847, theo di chiếu của vua Thiệu Trị.
Vì
Tự Đức là con thứ hai của vua Thiệu Trị, nên việc truyền ngôi cho ông đã gây
nên một bi kịch trong hoàng tộc. Anh trai của Tự Đức là Hồng Bảo,
tuy lớn hơn nhưng lại là con vợ thứ, bị vua Thiệu Trị nhận định là người ít học,
ham chơi nên đã truyền lại ngôi cho Tự Đức.
Ngày
Hồng Nhậm lên ngôi, Hồng Bảo uất ức ngất đi ở giữa triều đường. Sau đó Hồng Bảo
âm mưu cùng một số người lấy lại ngai vàng. Hồng Bảo tung nhiều tin tức nói xấu
Tự Đức, người ta ngờ Tự Đức không phải là con vua Thiệu Trị, mà chính là con của
Trương Đăng Quế được đánh tráo để họ Trương chiếm
ngai vàng. Âm mưu của Hồng Bảo bị bại lộ, Hồng Bảo bị hạ ngục và bị kết án tử
hình.
Tự Đức tha cho anh trai nhưng cho lệnh giam lại. Về sau Hồng Bảo thắt cổ tự tử trong tù (có sách viết là bị ép uống thuốc độc) năm 1854. Cái chết của Hồng Bảo trở thành một nghi án. Vua Tự Đức sợ sau này sử không chép đúng sự thật nên tự kể lại cuộc đời của mình và cho khắc vào bia đá lớn. Ngày nay bia đá này vẫn còn ở trong lăng Tự Đức.Tự Đức là một người ham học, hiểu biết nhiều và đặc biệt yêu thích thơ văn. Ông làm nhiều thơ chữ Hán, trong đó có bộ Việt sử tổng vịnh, vịnh hàng trǎm nhân vật trong lịch sử Việt Nam.
Tự Đức tha cho anh trai nhưng cho lệnh giam lại. Về sau Hồng Bảo thắt cổ tự tử trong tù (có sách viết là bị ép uống thuốc độc) năm 1854. Cái chết của Hồng Bảo trở thành một nghi án. Vua Tự Đức sợ sau này sử không chép đúng sự thật nên tự kể lại cuộc đời của mình và cho khắc vào bia đá lớn. Ngày nay bia đá này vẫn còn ở trong lăng Tự Đức.Tự Đức là một người ham học, hiểu biết nhiều và đặc biệt yêu thích thơ văn. Ông làm nhiều thơ chữ Hán, trong đó có bộ Việt sử tổng vịnh, vịnh hàng trǎm nhân vật trong lịch sử Việt Nam.
Tự
Đức làm cả thơ chữ Nôm,
những tập như Luận Ngữ diễn ca,
Thập điều diễn ca. Có rất nhiều
giai thoại về Tự Đức, nhất là những chuyện ông giao thiệp với các nhà vǎn, các
học giả đương thời. Ông rất thích lịch sử,
đã chỉ đạo cho Quốc sử quán soạn bộ sử lớn Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, trong đó tự ông ghi nhiều
lời bình luận.
Tự
Đức rất yêu nghệ thuật, đã tập trung về kinh đô Huế nhiều người soạn kịch
bản tuồng, và cho
soạn những vở tuồng lớn như Vạn bửu
trình tường, Quần phương hiến
thụy. Tự Đức được người đời ca ngợi là ông vua có hiếu. Dù làm vua, ông
luôn luôn kính cẩn, vâng lời mẹ dạy. Ông ghi chép các lời rǎn của mẹ vào một cuốn
sách đặt tên là cuốn Từ huấn lục.
Thậm chí khi thấy mình phạm tội, ông còn nằm ra, đặt roi trên chiếc mâm son để
chờ bà Từ Dũ trừng phạt.
Tự
Đức cũng được đánh giá là một vua tốt, chăm chỉ xem xét mọi việc triều chính
không hề trễ nải, và được các quan trong triều nể phục.
Tự
Đức còn là ông vua nhu nhược, hèn nhát. Ông là người chịu trách nhiệm chính
trong việc để mất Nam kì Lục tỉnh, Bắc kì dẫn đến mất cả nước về tay Thực dân Pháp sau này. Quân Pháp đến
đến lúc đánh lúc hàng, gặp việc không quả quyết, lại nghe lời phái chủ hòa nên
nhiều lần ra lệnh quan quân thoái lui.
Tự
Đức lên làm vua trong một hoàn cảnh đất nước khó khăn và phức tạp. Thiên tai
liên tiếp: hạn hán, bão lụt, nạn châu chấu
phá hoại mùa màng. Sau sự việc Hồng Bảo đã xảy ra vụ loạn Chày Vôi.
Đoàn Hữu Trưng là rể của Tùng Thiện vương (tức là em rể họ của Tự Đức)
đã nổi lên gây cuộc binh biến nhằm lập Hoàng tôn Ưng Đạo, con của Hồng Bảo lên
ngôi. Tự Đức suýt bị giết và sau khi dập tắt cuộc bạo loạn, ông đã cho xử tử cả
nhóm Đoàn Trưng và mẹ con Ưng Đạo (là chị dâu và cháu của ông).
Sau
đó trong nước còn xảy ra nhiều vụ loạn lạc khác. Phía Bắc, có cuộc nổi lên của Lê Duy Cự và Cao Bá Quát.
Nhóm khởi nghĩa cùng lúc có nạn châu chấu phát sinh phá hoại mùa màng, nên người
ta cũng gọi là giặc châu chấu. Tiếp theo
đến giặc Cờ Đen, Cờ Trắng, Cờ Vàng, gọi chung là giặc Tam Đường. Triều đình
đã phải rất vất vả mới dẹp được.
- Quá trình xây lăng
- Quá trình xây lăng
Tự
Đức đã sớm nghĩ đến việc xây lăng mộ cho mình ngay khi còn sống. Vốn là một người
giỏi thi phú, ông đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ xứng đáng với ngôi vị của
mình, địa điểm được chọn để xây lăng trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương
Xuân Thượng, tổng Cư Chánh.
Khi
mới khởi công xây dựng, vua Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt tên cho công trình,
với mong muốn được trường tồn. Tuy nhiên, do công việc xây lăng quá cực khổ, lại
bị quan lại đánh đập tàn nhẫn , là nguồn gốc cuộc nổi loạn Chày Vôi của dân phu
xây lăng.
Ngày
8-9 âm lịch năm Bính Dần
(1866), tức năm Tự Đức thứ 19, do việc xây dựng Vạn niên cơ, quân sĩ và dân phu
phải làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận. Nhân sự bất mãn đó, với lý do
tôn phù Đinh Đạo (cháu ruột Tự Đức, nguyên tên là Ưng Đạo, do cha là An Phong
công Hồng Bảo làm loạn nên phải đổi thành Đinh Đạo) lên ngôi vua, Đoàn Hữu Trưng cùng với các em là Đoàn Hữu Ái,
Đoàn Tư Trực, cùng các đồng chí là Trương Trọng Hòa, Phạm Lương, Tôn Thất Cúc,
Tôn Thất Giác, Bùi Văn Liệu, Nguyễn Văn Quí phát động khởi nghĩa. Những người
tham gia khởi nghĩa phần đông là nhân công đang uất hận vì bị bắt lao dịch khắc
nghiệt để xây dựng Vạn niên cơ. Họ dùng chầy vôi - dụng cụ lao động - làm võ
khí nên tục gọi là "giặc chày vôi". Tuy nhiên, cuộc đảo chính thất bại.
Cả nhà Ưng Đạo đều bị hại. Đoàn Hữu Trưng và hai người em bị giết lúc mới 22 tuổi.
Tuy
nhiên, do sự việc này, vua phải đổi tên Vạn niên cơ thành Khiêm Cung và viết
bài biểu trần tình để tạ tội. Năm 1873, Khiêm Cung mới được hoàn thành, vua Tự
Đức vẫn sống thêm 10 năm nữa rồi mới mất.
-
Toàn cảnh lăng
Trong
vòng La thành rộng khoảng 12ha, gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ dàn trải
thành cụm trên những thế đất phức tạp cao thấp hơn nhau chừng 10m. Nhưng, các hệ
thống bậc cấp lát đá thanh, các lối đi quanh co lát gạch Bát Tràng đã nối tất cả
các công trình kiến trúc lại thành một thể thống nhất, tương quan, gần
gũi.
Qua khỏi Khiêm Cung Môn, cửa tam quan hai tầng dựng trên một thế đất cao, người ta bước vào một hệ thống cung điện gồm vài chục tòa nhà lớn nhỏ và các công trình kiến trúc phụ thuộc.
Tòa ngang dãy dọc nơi đây đã được dành cho vua và đoàn cung nữ tùy tùng thỉnh thoảng lên ở lại vui chơi. Minh Khiêm Ðường - nhà hát cổ xưa và mang giá trị nghệ thuật kiến trúc trang trí. Ðiện Hòa Khiêm - nơi thờ đế và hậu, hiện còn chứa nhiều đồ ngự dụng và các tác phẩm mỹ thuật đương thời.
Nếu nhà cửa ở Khiêm Cung đều làm bằng gỗ thì tất cả các công trình kiến trúc ở khu vực lăng mộ bên kia đều được xây bằng gạch, đá. Ðáng để ý nhất là tấm bia lớn nhất Việt Nam cao chừng 5m, được bảo vệ bằng một tòa nhà đồ sộ kiên cố với cột to, vách dày và xây cửa cuốn. Các nhà kiến trúc đã cho xây Bi đình bằng vật liệu và kiểu thức như vậy là dùng để chống chọi với thời gian. Trên ngọn đồi nằm bên kia hồ bán nguyệt Tiểu Khiêm Trì là Bửu Thành xây bằng gạch và chính giữa có ngôi nhà nhỏ xây bằng đá thanh, nơi vua yên nghỉ. Bửu thành được bao phủ bởi một rừng thông xanh ngắt, reo vi vu suốt bốn mùa.
Ngoài ra, hệ thống tháo thoát trong toàn lăng tẩm đã được thiết kế, xây dựng một trình độ cao, và lưu thông rất tốt. Nhìn chung, mỗi công trình kiến trúc trong lăng Tự Ðức đều mang một đường nét khác nhau về nghệ thuật tạo hình: không trùng lặp và rất sinh động. Cách phân bố các khu vực và bố cục các công trình kiến trúc trong từng khu vực ở lăng Tự Ðức đã phá bỏ hệ thông lệ giữ gìn sự đối xứng từng cổ điển ở một số lăng khác. Tại đây còn có những lối đi uốn lượn mềm mại theo thế đất tự nhiên hoặc do bàn tay con người tạo dáng. Ðường nét kiến trúc thật phóng khoáng, hài hòa thiên nhiên có sẵn, hoặc cải tạo lại cho phù hợp với nghệ thuật kiến trúc phong cảnh.
Nếu phá vỡ sự đối xứng cũng là một nét đẹp trong nghệ thuật thì lăng Tự Ðức có thêm nét đẹp đó. Kiến trúc và thiên nhiên ở đây gây được nhiều cảm xúc thẩm mỹ mới lạ cho người đến tham quan, và phản ánh được tâm hồn lãng mạn trữ tình của một ông vua thi sĩ.
Lăng Tự Ðức là một bài thơ tuyệt tác, một bức tranh sơn thủy hữu tình, gợi cho du khách một "hồn êm thơ mộng".
Qua khỏi Khiêm Cung Môn, cửa tam quan hai tầng dựng trên một thế đất cao, người ta bước vào một hệ thống cung điện gồm vài chục tòa nhà lớn nhỏ và các công trình kiến trúc phụ thuộc.
Tòa ngang dãy dọc nơi đây đã được dành cho vua và đoàn cung nữ tùy tùng thỉnh thoảng lên ở lại vui chơi. Minh Khiêm Ðường - nhà hát cổ xưa và mang giá trị nghệ thuật kiến trúc trang trí. Ðiện Hòa Khiêm - nơi thờ đế và hậu, hiện còn chứa nhiều đồ ngự dụng và các tác phẩm mỹ thuật đương thời.
Nếu nhà cửa ở Khiêm Cung đều làm bằng gỗ thì tất cả các công trình kiến trúc ở khu vực lăng mộ bên kia đều được xây bằng gạch, đá. Ðáng để ý nhất là tấm bia lớn nhất Việt Nam cao chừng 5m, được bảo vệ bằng một tòa nhà đồ sộ kiên cố với cột to, vách dày và xây cửa cuốn. Các nhà kiến trúc đã cho xây Bi đình bằng vật liệu và kiểu thức như vậy là dùng để chống chọi với thời gian. Trên ngọn đồi nằm bên kia hồ bán nguyệt Tiểu Khiêm Trì là Bửu Thành xây bằng gạch và chính giữa có ngôi nhà nhỏ xây bằng đá thanh, nơi vua yên nghỉ. Bửu thành được bao phủ bởi một rừng thông xanh ngắt, reo vi vu suốt bốn mùa.
Ngoài ra, hệ thống tháo thoát trong toàn lăng tẩm đã được thiết kế, xây dựng một trình độ cao, và lưu thông rất tốt. Nhìn chung, mỗi công trình kiến trúc trong lăng Tự Ðức đều mang một đường nét khác nhau về nghệ thuật tạo hình: không trùng lặp và rất sinh động. Cách phân bố các khu vực và bố cục các công trình kiến trúc trong từng khu vực ở lăng Tự Ðức đã phá bỏ hệ thông lệ giữ gìn sự đối xứng từng cổ điển ở một số lăng khác. Tại đây còn có những lối đi uốn lượn mềm mại theo thế đất tự nhiên hoặc do bàn tay con người tạo dáng. Ðường nét kiến trúc thật phóng khoáng, hài hòa thiên nhiên có sẵn, hoặc cải tạo lại cho phù hợp với nghệ thuật kiến trúc phong cảnh.
Nếu phá vỡ sự đối xứng cũng là một nét đẹp trong nghệ thuật thì lăng Tự Ðức có thêm nét đẹp đó. Kiến trúc và thiên nhiên ở đây gây được nhiều cảm xúc thẩm mỹ mới lạ cho người đến tham quan, và phản ánh được tâm hồn lãng mạn trữ tình của một ông vua thi sĩ.
Lăng Tự Ðức là một bài thơ tuyệt tác, một bức tranh sơn thủy hữu tình, gợi cho du khách một "hồn êm thơ mộng".
Lăng Khải Định
Lăng
Khải Định hay Ứng Lăng thuộc xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên -
Huế, cách Tp. Huế 10km.
Lăng Khải Định có diện tích nhỏ hơn so với lăng của các vua tiền nhiệm nhưng công phu, lộng lẫy hơn; kết hợp tinh xảo hai nền kiến trúc, văn hoá Đông - Tây.
Lên ngôi năm 1916, vua Khải Ðịnh chọn triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê) cách Huế 10km để xây dựng lăng mộ. Lăng khởi công ngày 04/9/1920 và kéo dài 11 năm mới hoàn thành.
So với lăng của các vua tiền nhiệm, lăng Khải Ðịnh có diện tích nhỏ hơn nhiều nhưng rất công phu và tốn nhiều thời gian. Nó là kết quả hội nhập của nhiều dòng kiến trúc Á - Âu, Việt Nam cổ điển và hiện đại.
Tổng thể của lăng là một khối nổi hình chữ nhật vươn cao tới 127 bậc.
Lăng Khải Định có diện tích nhỏ hơn so với lăng của các vua tiền nhiệm nhưng công phu, lộng lẫy hơn; kết hợp tinh xảo hai nền kiến trúc, văn hoá Đông - Tây.
Lên ngôi năm 1916, vua Khải Ðịnh chọn triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê) cách Huế 10km để xây dựng lăng mộ. Lăng khởi công ngày 04/9/1920 và kéo dài 11 năm mới hoàn thành.
So với lăng của các vua tiền nhiệm, lăng Khải Ðịnh có diện tích nhỏ hơn nhiều nhưng rất công phu và tốn nhiều thời gian. Nó là kết quả hội nhập của nhiều dòng kiến trúc Á - Âu, Việt Nam cổ điển và hiện đại.
Tổng thể của lăng là một khối nổi hình chữ nhật vươn cao tới 127 bậc.
Vào
lăng phải vượt qua hệ thống của 37 bậc với thành bậc đắp rồng to lớn nhất cả nước,
trên sân có hai dãy Tả - Hữu tòng tự, ở hai bên xây kiểu chồng diêm hai lớp,
tám mái, song các vì kèo lại bằng xi măng cốt thép.
Vượt 29 bậc nữa lên tầng sân bái đình, ở giữa có nhà bia Bát giác xây bê tông cốt thép hoà trộn cổ kim, trong đó có bia đá. Hai bên sân, mỗi bên có 2 hàng tượng cùng nhìn vào giữa sân. Ngoài tượng như ở các lăng khác, còn có thêm 6 cặp tượng linh túc vệ, từng đôi tượng cùng loại ở cạnh nhau được làm đối xứng và cùng đối xứng với đôi tượng phía đối diện. Các tượng này làm bằng chất liệu đá hiếm trong lăng Khải Ðịnh và đều có khí sắc. Hai cột trụ biểu cao to.
Qua 3 lớp nền là đến điện thờ. Từ sân lên cửa điện còn phải qua 15 bậc nữa.
Vượt 29 bậc nữa lên tầng sân bái đình, ở giữa có nhà bia Bát giác xây bê tông cốt thép hoà trộn cổ kim, trong đó có bia đá. Hai bên sân, mỗi bên có 2 hàng tượng cùng nhìn vào giữa sân. Ngoài tượng như ở các lăng khác, còn có thêm 6 cặp tượng linh túc vệ, từng đôi tượng cùng loại ở cạnh nhau được làm đối xứng và cùng đối xứng với đôi tượng phía đối diện. Các tượng này làm bằng chất liệu đá hiếm trong lăng Khải Ðịnh và đều có khí sắc. Hai cột trụ biểu cao to.
Qua 3 lớp nền là đến điện thờ. Từ sân lên cửa điện còn phải qua 15 bậc nữa.
Ðiện
Khải Thành là phòng chính của cung Thiên Ðịnh, có nhiều phòng liên hoàn. Các điện
tường phẳng được trang trí dày đặc bằng nghệ thuật khảm kính sứ. Cùng với tranh
trên tường, dưới nền lát gạch men hoa và trên trần vẽ Cửu long ẩn hiện trong
mây. Cả không gian 6 mặt đã tạo nên một thế giới nghệ thuật.
Phòng sau của điện Khải Thành là chính tẩm có đặt tượng vua Khải Ðịnh, mộ phần ở phía dưới. Trong cùng là khán thờ với bài vị của vị vua đã quá cố.
Lăng Khải Ðịnh thực sự là một công trình có giá trị nghệ thuật và kiến trúc. Nó làm phong phú và đa dạng thêm quần thể lăng tẩm ở Huế.
- Tiểu sử vua Khải Định
Phòng sau của điện Khải Thành là chính tẩm có đặt tượng vua Khải Ðịnh, mộ phần ở phía dưới. Trong cùng là khán thờ với bài vị của vị vua đã quá cố.
Lăng Khải Ðịnh thực sự là một công trình có giá trị nghệ thuật và kiến trúc. Nó làm phong phú và đa dạng thêm quần thể lăng tẩm ở Huế.
- Tiểu sử vua Khải Định
Vua
Khải Ðịnh (1916 - 1925) là vị vua thứ 12 của triều Nguyễn, bước lên ngai vàng
vào giữa tuổi 31.
Khải Ðịnh tên là Nguyễn Phúc Bửu Ðảo, là con trai duy nhất của vua Ðồng Khánh. Sau khi vua Duy Tân bị đày đi Phi Châu, Bửu Ðảo lên ngôi và lấy niên hiệu là Khải Ðịnh. Từ khi lên ngôi, ông đã say sưa với việc xây dựng cung điện, dinh thự, lăng tẩm của bản thân và Hoàng tộc như điện Kiến Trung, cung An Ðịnh, cửa Trường An, cửa Hiển Nhơn, cửa Chương Ðức. Ðặc biệt là Ứng lăng (lăng của Khải Ðịnh). Khải Ðịnh trị vì được 9 năm thì băng hà (1925), thọ 40 tuổi.
Khải Ðịnh tên là Nguyễn Phúc Bửu Ðảo, là con trai duy nhất của vua Ðồng Khánh. Sau khi vua Duy Tân bị đày đi Phi Châu, Bửu Ðảo lên ngôi và lấy niên hiệu là Khải Ðịnh. Từ khi lên ngôi, ông đã say sưa với việc xây dựng cung điện, dinh thự, lăng tẩm của bản thân và Hoàng tộc như điện Kiến Trung, cung An Ðịnh, cửa Trường An, cửa Hiển Nhơn, cửa Chương Ðức. Ðặc biệt là Ứng lăng (lăng của Khải Ðịnh). Khải Ðịnh trị vì được 9 năm thì băng hà (1925), thọ 40 tuổi.
Lăng Gia Long
-
Giới thiệu
khái quát
Lăng Gia Long hay Thiên Thọ Lăng nằm
trong dãy núi Thiên Thọ, thuộc xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên -
Huế, cách trung tâm Tp. Huế 16km.
Lăng Gia Long là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyến. Kiến trúc lăng có vẻ đơn sơ nhưng hoành tráng.
Ðến thăm lăng Gia Long, du khách có thể đi thuyền theo sông Hương khoảng 18km rồi cập bến lăng, hoặc đi theo đường bộ chừng 16km, xuống bến đò Kim Ngọc, đi thêm vài cây số nữa thì tới.
Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi, núi lớn, nhỏ, trong đó có Ðại Thiên Thọ là ngọn núi lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và là tên gọi của cả quần sơn này.
Lăng bắt đầu được xây dựng từ năm 1814 và đến năm 1820 mới hoàn tất. Từ bờ sông Hương đi vào lăng có con đường rộng, hai bên trồng thông và sầu đông cao vút, xanh um, tạo ra một không khí trong mát, tĩnh mịch. Hai cột trụ biểu uy nghi nằm ở ngoài cùng, báo hiệu khu vực lăng.
Lăng tẩm nhà vua nằm trên một quả đồi bằng phẳng, rộng lớn. Trước có ngọn Ðại Thiên Thọ án ngữ, sau có 7 ngọn núi làm hậu án. Bên trái có 14 ngọn núi làm "tả thanh long" và bên phải có 14 ngọn làm “hữu bạch hổ”.
Lăng Gia Long là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyến. Kiến trúc lăng có vẻ đơn sơ nhưng hoành tráng.
Ðến thăm lăng Gia Long, du khách có thể đi thuyền theo sông Hương khoảng 18km rồi cập bến lăng, hoặc đi theo đường bộ chừng 16km, xuống bến đò Kim Ngọc, đi thêm vài cây số nữa thì tới.
Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi, núi lớn, nhỏ, trong đó có Ðại Thiên Thọ là ngọn núi lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và là tên gọi của cả quần sơn này.
Lăng bắt đầu được xây dựng từ năm 1814 và đến năm 1820 mới hoàn tất. Từ bờ sông Hương đi vào lăng có con đường rộng, hai bên trồng thông và sầu đông cao vút, xanh um, tạo ra một không khí trong mát, tĩnh mịch. Hai cột trụ biểu uy nghi nằm ở ngoài cùng, báo hiệu khu vực lăng.
Lăng tẩm nhà vua nằm trên một quả đồi bằng phẳng, rộng lớn. Trước có ngọn Ðại Thiên Thọ án ngữ, sau có 7 ngọn núi làm hậu án. Bên trái có 14 ngọn núi làm "tả thanh long" và bên phải có 14 ngọn làm “hữu bạch hổ”.
Tổng
thể lăng chia làm 3 khu vực:
-
Phần
chính giữa là khu lăng mộ của vua và bà Thừa Thiên Cao Hoàng hậu. Qua khỏi sân
chầu với các hàng tượng đá uy nghiêm và 7 cấp sân tế là Bửu Thành ở đỉnh đồi.
-
Bên
phải khu lăng là khu vực tẩm điện với điện Minh Thành thờ Hoàng đế và Hoàng hậu
thứ nhất
-
Bên
trái khu lăng là Bi Ðình, nay chỉ còn một tấm bia lớn ghi bài văn bia Thánh đức
thần công của vua Minh Mạng ca ngợi vua cha, được chạm khắc tinh tế và sắc sảo.
Lăng
Gia Long là một bức tranh tuyệt tác về sự phối trí giữa thiên nhiên và kiến
trúc. Vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn yên nghỉ trong một không gian tĩnh lặng
và đầy chất thơ.
Tiểu
sử vua Gia Long
Nguyễn Phúc Ánh, tên húy là Chủng, sinh năm Nhâm (1762), con thứ ba của chúa Nguyễn Phúc Luân. Năm 1773, Tây Sơn khởi nghĩa, Nguyễn Phúc Ánh 12 tuổi, theo chúa Nguyễn Phúc Thuần vào Quảng Nam. Mùa thu năm Ðinh Dậu (1777) Nguyễn Phúc Thuần tử trận, Nguyễn Phúc Ánh một mình chạy thoát ra đảo Thổ Chu, rồi sau chạy sang ẩn náu nhờ bên đất Xiêm.
Tháng 7/1792, vua Quang Trung mất, con là Quang Toản còn ít tuổi, Nguyễn Ánh tổ chức tấn công và đến tháng 7/1802, Nguyễn Ánh diệt xong nhà Tây Sơn lên ngôi hoàng đế, niên hiệu là Gia Long đóng đô tại thành Phú Xuân (Huế) và đặt tên nước là Việt Nam.
Lần đầu Gia Long quản lý một nước Việt Nam thống nhất từ Bắc chí Nam, từ Lạng Sơn đến Hà Tiên, Gia Long chia cả nước làm 23 trấn, 4 doanh. Từ Ninh Bình trở ra gọi là Bắc thành gồm 11 trấn (5 nội trấn và 6 ngoại trấn); từ Bình Thuận trở vào gọi là Gia Ðịnh thành gồm 5 trấn; ở quãng giữa là các trấn độc lập: Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Nghĩa, Bình Ðịnh, Phú Yên, Bình Hoà, Bình Thuận, đất kinh kỳ đặt 4 doanh: Trực Lệ Quảng Ðức Doanh (tức Thừa Thiên), Quảng Trị doanh, Quảng Bình doanh, Quảng Nam doanh.
Ðể tránh lộng quyền, Gia Long không đặt chức Tể tướng, triều đình chỉ có 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công do các thượng thư đứng đầu và có tả hữu tham tri, tả hữu thị lang giúp việc. Ở trong cung, không lập ngôi Hoàng hậu, chỉ có Hoàng Phi và các cung tần.
Năm 1815, bộ “Quốc triều hình luật” gồm 22 quyển với 398 điều luật đã được ban hành.
Ngày Ðinh Mùi tháng 12 năm Kỷ Mão (1819), Gia Long mất, thọ 59 tuổi, ở ngôi chúa 25 năm, ở ngôi vua 17 năm.
Nguyễn Phúc Ánh, tên húy là Chủng, sinh năm Nhâm (1762), con thứ ba của chúa Nguyễn Phúc Luân. Năm 1773, Tây Sơn khởi nghĩa, Nguyễn Phúc Ánh 12 tuổi, theo chúa Nguyễn Phúc Thuần vào Quảng Nam. Mùa thu năm Ðinh Dậu (1777) Nguyễn Phúc Thuần tử trận, Nguyễn Phúc Ánh một mình chạy thoát ra đảo Thổ Chu, rồi sau chạy sang ẩn náu nhờ bên đất Xiêm.
Tháng 7/1792, vua Quang Trung mất, con là Quang Toản còn ít tuổi, Nguyễn Ánh tổ chức tấn công và đến tháng 7/1802, Nguyễn Ánh diệt xong nhà Tây Sơn lên ngôi hoàng đế, niên hiệu là Gia Long đóng đô tại thành Phú Xuân (Huế) và đặt tên nước là Việt Nam.
Lần đầu Gia Long quản lý một nước Việt Nam thống nhất từ Bắc chí Nam, từ Lạng Sơn đến Hà Tiên, Gia Long chia cả nước làm 23 trấn, 4 doanh. Từ Ninh Bình trở ra gọi là Bắc thành gồm 11 trấn (5 nội trấn và 6 ngoại trấn); từ Bình Thuận trở vào gọi là Gia Ðịnh thành gồm 5 trấn; ở quãng giữa là các trấn độc lập: Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Nghĩa, Bình Ðịnh, Phú Yên, Bình Hoà, Bình Thuận, đất kinh kỳ đặt 4 doanh: Trực Lệ Quảng Ðức Doanh (tức Thừa Thiên), Quảng Trị doanh, Quảng Bình doanh, Quảng Nam doanh.
Ðể tránh lộng quyền, Gia Long không đặt chức Tể tướng, triều đình chỉ có 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công do các thượng thư đứng đầu và có tả hữu tham tri, tả hữu thị lang giúp việc. Ở trong cung, không lập ngôi Hoàng hậu, chỉ có Hoàng Phi và các cung tần.
Năm 1815, bộ “Quốc triều hình luật” gồm 22 quyển với 398 điều luật đã được ban hành.
Ngày Ðinh Mùi tháng 12 năm Kỷ Mão (1819), Gia Long mất, thọ 59 tuổi, ở ngôi chúa 25 năm, ở ngôi vua 17 năm.
-
Quá
trình xây dựng Lăng
Cũng
vì quá sâu sắc với công trình xây cất “ngôi
nhà vĩnh cửu” của mình mà có lần suýt nữa, Gia Long đã thiệt mạng trong
một tai nạn ở công trường. Một trận gió làm sập ngôi nhà mà vua đang trú ngụ,
vua Gia Long tuy đã ẩn trong một cái hố nhưng vẫn bị thương ở trán, mí mắt và bị
dập chân do một thanh xà rơi trúng. Hai hoàng tử thứ bảy và thứ tám là Tấn và
Phổ bị trọng thương, nhiều người khác bị chết. Gia Long không trừng phạt các
quan lại thi công, ngược lại đã cấp thuốc men để chạy chữa cho họ, cấp phát 500
quan tiền và 500 tiêu chuẩn gạo cho dân làng Định Môn, gần nơi xây dựng
lăng.
-
Giá
trị
Lăng
Gia Long là một bức tranh trác tuyệt về sự phối trí giữa thiên nhiên và kiến
trúc, trong đó, thiên nhiên là yếu tố chính tạo nên nét hùng vĩ của cảnh quan.
Đến thăm lăng, du khách được thả mình trong một không gian tĩnh lặng nhưng đầy
chất thơ để suy ngẫm về những thành bại của cuộc đời mình cũng như vinh nhục của
ông vua đầu triều Nguyễn. Dù hết sức cố gắng của trung tâm bảo tàng di tích cố đô Huế
nhưng xem ra di tích không mấy thu hút khách tham qua , một phần do điều kiện
xa xôi, một phần giá trị về mặt kiến trúc còn thua kém các lăng Tự Đức
và Lăng Khải Định và lăng Minh Mạng
nên thật sự chưa thu hút du khách.
-
Miêu
tả chi tiết
-
Khu
Lăng Tẩm
Lăng
tẩm nhà vua nằm trên một quả đồi bằng phẳng rộng lớn. Trước có ngọn Đại Thiên
Thọ án ngữ, sau có 7 ngọn núi làm hậu chẩm. Bên trái và bên phải, mỗi bên có 14
ngọn núi là “Tả thanh long” và “Hữu bạch hổ”. Tổng thể lăng chia làm 3 khu vực:
-
Khu
Lăng Mộ
Phần
chính giữa là khu lăng mộ của vua và bà Thừa Thiên Cao Hoàng hậu. Qua khỏi sân
chầu với các hàng tượng đá uy nghiêm và 7 cấp sân tế là Bửu Thành ở đỉnh đồi.
Bên trong Bửu Thành có hai ngôi mộ đá, dạng thạch thất, được song táng theo
quan niệm “Càn Khôn hiệp đức” -
một hình ảnh đẹp của hạnh phúc và thủy chung.Bên phải khu lăng là khu vực tẩm
điện với điện Minh Thành là trung
tâm. Điện Minh Thành được dùng để thờ Hoàng đế và Hoàng hậu thứ nhất. Minh
Thành nghĩa là “sự hoàn thiện rực rỡ”. Cũng có một cách giải thích khác là
“hoàn thành vào ngày mai”, bởi người ta cho rằng: “Sườn của điện này chưa có
sơn son thếp vàng và chạm khắc còn đơn giản” (theo L. Cadière). Bên trong điện
Minh Thành, ngày trước có thờ nhiều kỷ vật gắn bó với cuộc đời chinh chiến của
vua Gia Long như cân đai, mũ, yên ngựa.
-
Khu
Bi Đình
Bên
trái khu lăng là Bi Đình, nay chỉ còn một tấm bia lớn ghi bài văn bia “Thánh đức thần công” của vua Minh Mạng
ca ngợi vua cha, được chạm khắc tinh tế và sắc sảo.
-
Lăng
lận cận
Men
theo các lối đi giữa những đám cỏ và hoa rừng, du khách thả bước dưới bóng
thông tươi mát để sang thăm các lăng phụ cận. Đáng lưu ý nhất là lăng Thiên Thọ
Hữu của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, nằm trong một vị thế u tịch mà sâu lắng.
Điện Gia Thành ở đó cũng là một công trình kiến trúc được xây dựng theo mô thức
của điện Minh Thành, dùng để thờ người phụ nữ đã sinh ra vị vua có tài nhất của
triều Nguyễn - vua Minh Mạng.
Toàn
bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi núi lớn nhỏ có tên gọi riêng, trong
đó Đại Thiên Thọ là ngọn lớn
nhất được chọn làm tiền án của lăng và được dùng để gọi tên chung cho cả quần
sơn này: Thiên Thọ Sơn. Tất cả đều
được quy hoạch trong khu vực quan phòng rộng hơn 28 km2, tạo thành một cảnh
quan hùng tráng chạy dài từ chân dãy Trường Sơn đến bờ Tả Trạch - một hợp lưu của
Hương Giang. Đích thân vua Gia Long đã thám sát, duyệt định vị trí, quy hoạch
và chỉ đạo công tác thiết kế cũng như giám sát tiến độ thi công. Sử cũ cho hay,
thầy Địa lý Lê Duy Thanh (con trai nhà
bác học Lê Quý Đôn) là người tìm được thế đất này, nơi mà theo ông “đã tập trung được mọi ảnh hưởng tốt lành tỏa
ra từ nhiều núi đồi bao quanh”, nơi mà “ảnh hưởng tốt lành sẽ còn mãi mãi trong suốt 10 ngàn năm” .
Ca Huế
Ca Huế
là một thể loại âm nhạc cổ truyền của xứ Huế, Việt Nam, bao gồm
ca và đàn, ở nhiều phương diện khá gần gũi với hát ả
đào.
Nếu
kinh đô Thăng Long
xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân
gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh,
thì kinh đô Phú
Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn
ở Đàng Trong
phát tán thành một lối gọi là ca Huế
(gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người
Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong
tiến trình của một lối hát truyền thống [1] và tiến trình lịch sử từ
Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.
Ca
Huế mang sắc thái địa phương rõ nét bởi nó gắn chặt với đặc điểm ngữ âm ngữ điệu
của giọng nói xứ Huế, hoặc
nói một cách khác mang tính hệ quả là do mối quan hệ gắn bó với nền âm nhạc dân
gian - dân ca xứ Huế. Đây là một đặc điểm trong tiến trình phát triển của Ca Huế
và cũng là một đặc điểm của nền âm nhạc cổ truyền xứ Huế; nơi mà hai thành phần
âm nhạc: chuyên nghiệp bác học (nhã nhạc Cung đình, ca Huế),
thành phần dân gian (dân ca: hò,
lý...) thường xuyên tác động qua
lại, gắn bó, thâm nhập, thúc đẩy lẫn nhau với hiện tượng dân gian hóa ở âm nhạc
bác học và bác học hóa ở âm nhạc dân gian xảy ra liên tục trong quá trình phát
triển.
Dù
Ca Huế mang rõ nét tính chất đặc thù địa phương nhưng nó đã không chỉ bó hẹp
trong một xứ Huế. Ngoài yếu tố đặc thù và một số đặc điểm vốn có của mọi thể loại
nhạc cổ truyền thì nghệ thuật Ca Huế vẫn là khởi nguyên từ văn hóa nghệ thuật cội
nguồn Thăng Long,
hội tụ từ truyền thống văn hóa âm nhạc dân tộc. Vì vậy trong giai đoạn thịnh đạt
đã lan tỏa trở lại với cội nguồn, thâm nhập và trở thành một thành phần tương hợp
trong hầu hết dân ca vùng Trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Chẳng hạn: hơi Huế, giọng Lý, giọng
Kinh ở khối giọng Vặt, giọng Ngoại trong hát Quan họ, hát Xoan, hát Ghẹo, hát
Chèo v.v. Hướng phát triển về phía Nam của Ca Huế thì rõ ràng đã sản sinh ra lối
nhạc tài tử như nhà nghiên cứu Giáo sư Trần Văn Khê nhận xét: "lối
"nhạc tài tử" trong Nam là con đẻ của lối "ca Huế" miền
Trung".
Nói
là Ca Huế gắn với ngữ âm của giọng nói Xứ Huế, mà giọng Huế thì không chuẩn như
Hà Nội trong vấn đề xử lý các dấu giọng, nên với đặc tính "cạn và hẹp"
giọng nói Huế đã để lại dấu vết trong đường nét giai điệu Ca Huế một tính chất
đặc hữu, khác với dân ca nhạc cổ từ đèo Ngang trở
ra và từ Hải Vân
trở vào. Tuy vậy một số nhà nghiên cứu còn căn cứ vào sự giao thoa ảnh hưởng của
các truyền thống văn hóa khác trong lịch sử văn hóa Việt Nam cho rằng: điệu Nam
trong ca Huế do ảnh hưởng nhạc Chăm mà có.
Ca
Huế không phải là nhạc cung đình triều Nguyễn nhưng cũng không thuộc loại nhạc
dân gian". Với một hệ thống bài bản phong phú, cấu trúc phức tạp nhưng chặt
chẽ, hoàn chỉnh; những sắc thái tình cảm tinh tế cùng với những đòi hỏi khá phức
tạp đối với ca công về cách hát, đối với nhạc công về kỷ thuật diễn tấu nhạc cụ,
nên ca Huế thuộc về phạm trù âm nhạc cổ điển, bác học.
Ca
Huế có điệu thức Bắc và bốn sắc thái (quen gọi là hơi): hơi quảng, hơi đảo, hơi
thiền, hơi nhạc, có điệu thức Nam và bốn sắc thái: hơi xuân, hơi thương, hơi
ai, hơi oán. Giữa hai điệu thức Bắc và Nam có một sắc thái trung gian: hơi dựng.
Ca
Huế là một thể loại nhạc hát mang nhiều yếu tố chuyên nghiệp về cấu trúc và
phong cách biểu diễn, nhưng về nội dung âm nhạc của nó thì bộ phận đặc sắc nhất
lại chịu ảnh hưởng rõ rệt của Hò, Lý dân gian.
Ca
Huế mặc dù xuất phát tại cung đình nhưng nguồn gốc lại gắn bó với dân gian. Có
thể nói rằng, trong nền âm nhạc cổ truyền Huế thì ca Huế - bộ phận thứ hai của
dòng bác học - là nhịp cầu nối giữa cung đình và dân gian.
Chợ Đông Ba
Chợ
Đông Ba nằm dọc theo bờ bắc sông Hương, bên đường Trần Hưng Đạo, thành phố Huế,
cách cầu Trường Tiền khoảng 100m về phía bắc.
Chợ Đông Ba là trung tâm thương mại lớn nhất của tỉnh Thừa Thiên - Huế và khu vực.
Trước khi có chợ Ðông Ba, bên ngoài cửa Chánh Ðông (tức cửa Ðông Ba theo cách gọi dân gian) dưới thời Gia Long có một cái chợ lớn mang tên "Qui giả thị". Tên cái chợ này đánh dấu sự kiện trở lại Phú Xuân của quan quân nhà Nguyễn. Thời Quang Toản loạn lạc, nhân dân chạy tứ tán, đến đầu triều Nguyễn thái bình, nhân dân trở lại từ khắp nơi. Qui Giả là ngôi chợ của những người trở về. Gần một thế kỷ sau, mùa hè năm 1885, Kinh đô thất thủ, chợ Qui Giả bị giặc Pháp đốt sạch. Ðến năm 1887 vua Ðồng Khánh cho xây lại chợ và đổi tên là Ðông Ba.
Chợ Đông Ba là trung tâm thương mại lớn nhất của tỉnh Thừa Thiên - Huế và khu vực.
Trước khi có chợ Ðông Ba, bên ngoài cửa Chánh Ðông (tức cửa Ðông Ba theo cách gọi dân gian) dưới thời Gia Long có một cái chợ lớn mang tên "Qui giả thị". Tên cái chợ này đánh dấu sự kiện trở lại Phú Xuân của quan quân nhà Nguyễn. Thời Quang Toản loạn lạc, nhân dân chạy tứ tán, đến đầu triều Nguyễn thái bình, nhân dân trở lại từ khắp nơi. Qui Giả là ngôi chợ của những người trở về. Gần một thế kỷ sau, mùa hè năm 1885, Kinh đô thất thủ, chợ Qui Giả bị giặc Pháp đốt sạch. Ðến năm 1887 vua Ðồng Khánh cho xây lại chợ và đổi tên là Ðông Ba.
Chợ
cung cấp thực phẩm cho cung điện, nhà thương, đồn lính, ký túc xá các trường Quốc
học, Ðồng Khánh, Bình Linh, Thiên Hựu. Ðến năm 1899, trong công cuộc chỉnh
trang đô thị theo phong cách phương Tây, vua Thành Thái cho đem chợ ra chỗ bây
giờ, đình chợ cũ trở thành trường Pháp Việt Ðông Ba. Chợ Ðông Ba thời Thành
Thái gồm có 4 dãy quán: trước, sau, phải, trái. Mặt trước một dãy 8 gian, mặt
sau một dãy 12 gian, dãy phía tay phải 13 gian... đều lợp ngói. Giữa chợ có một
toà lầu vuông, ba tầng. Tầng dưới có 4 bức tường, mỗi tường có 2 cửa. Tầng trên
4 mặt đều có cửa, đều có mặt đồng hồ để điểm giờ khắc. Trong chợ xây một giếng
đá, có hệ thống máy giúp cho việc múc nước. Khi lấy nước dùng tay quay máy, tự
nhiên nước trong giếng tràn lên, phun ra.
Ðầu thế kỷ 20, chợ Ðông Ba được tu sửa nhiều lần nhưng vẫn giữ cốt cách cũ. Ðến năm 1967, chính quyền Sài Gòn cho triệt hạ chợ cũ và xây lại chợ mới. Công trình đang dang dở thì bị bom pháo Mỹ trong chiến dịch Huế Xuân 1968 bắn phá tan tành. Sau đó chính quyền Sài Gòn cho sửa chữa tạm để buôn bán. Ðến năm 1987, chợ Ðông Ba được đại trùng tu. Ngoài lầu chuông ở trung tâm, chợ Ðông Ba mới có 9 dãy nhà bao quanh cùng 4 khu hàng mới, như chợ cá, khu hàng tự sản, tự tiêu, khu hàng dịch vụ... với tổng diện tích mặt bằng xây dựng 15.597m². Ngoài ra ban quản lý chợ còn quản lý khu Hoa Viên Chương Dương, các bến bãi đỗ xe ôtô, xe lam, nơi giữ xe đạp, xe máy... nâng tổng diện tích mặt bằng thuộc chợ lên trên 47.614m² với 2.543 hộ kinh doanh cố định, 141 lô bạ, 500 - 700 hộ buôn bán rong. Bình quân mỗi ngày có từ 5.000 đến 7.000 khách đến chợ. Vào những dịp lễ tết, chợ đông hơn, có trên 1,2 vạn người.
Những tinh tuý văn hoá vật chất của Thừa Thiên - Huế còn giữ được cho đến nay đều có thể tìm thấy ở chợ Ðông Ba như: nón lá Phú Cam, dao kéo Hiền Lương, đồ kim hoàn Kế Môn, mè xửng Song Hỷ, dâu Truồi, chè Tuần, quít Hương Cần, thanh trà Lại Bằng, sen khô hồ Tịnh, hàng mã hoa giấy làng Sình… và cả những món ăn Huế truyền thống, bình dân như: cơm hến, bún bò, bánh lá, chả tôm, bánh khoái, chè đậu ván...Chợ Ðông Ba đã trở thành trung tâm cung cấp những sơn hào hải vị cho các nhà hàng, khách sạn quốc tế, bán các món đặc sản Huế cho khách du lịch từ bốn bể năm châu đến tham quan di sản thế giới tại Huế.
Ngày nay chợ Ðông Ba giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Ngoài nhiệm vụ cung cấp thực phẩm và hàng tiêu dùng cho thành phố, chợ Ðông Ba còn là nơi tạo việc làm cho hàng ngàn người thất nghiệp và đóng vào ngân sách nhà nước mỗi năm hàng chục tỷ đồng tiền thuế. Chợ Ðông Ba, cầu Trường Tiền cùng với sông Hương là biểu tượng của xứ Huế thơ mộng.
Ðầu thế kỷ 20, chợ Ðông Ba được tu sửa nhiều lần nhưng vẫn giữ cốt cách cũ. Ðến năm 1967, chính quyền Sài Gòn cho triệt hạ chợ cũ và xây lại chợ mới. Công trình đang dang dở thì bị bom pháo Mỹ trong chiến dịch Huế Xuân 1968 bắn phá tan tành. Sau đó chính quyền Sài Gòn cho sửa chữa tạm để buôn bán. Ðến năm 1987, chợ Ðông Ba được đại trùng tu. Ngoài lầu chuông ở trung tâm, chợ Ðông Ba mới có 9 dãy nhà bao quanh cùng 4 khu hàng mới, như chợ cá, khu hàng tự sản, tự tiêu, khu hàng dịch vụ... với tổng diện tích mặt bằng xây dựng 15.597m². Ngoài ra ban quản lý chợ còn quản lý khu Hoa Viên Chương Dương, các bến bãi đỗ xe ôtô, xe lam, nơi giữ xe đạp, xe máy... nâng tổng diện tích mặt bằng thuộc chợ lên trên 47.614m² với 2.543 hộ kinh doanh cố định, 141 lô bạ, 500 - 700 hộ buôn bán rong. Bình quân mỗi ngày có từ 5.000 đến 7.000 khách đến chợ. Vào những dịp lễ tết, chợ đông hơn, có trên 1,2 vạn người.
Những tinh tuý văn hoá vật chất của Thừa Thiên - Huế còn giữ được cho đến nay đều có thể tìm thấy ở chợ Ðông Ba như: nón lá Phú Cam, dao kéo Hiền Lương, đồ kim hoàn Kế Môn, mè xửng Song Hỷ, dâu Truồi, chè Tuần, quít Hương Cần, thanh trà Lại Bằng, sen khô hồ Tịnh, hàng mã hoa giấy làng Sình… và cả những món ăn Huế truyền thống, bình dân như: cơm hến, bún bò, bánh lá, chả tôm, bánh khoái, chè đậu ván...Chợ Ðông Ba đã trở thành trung tâm cung cấp những sơn hào hải vị cho các nhà hàng, khách sạn quốc tế, bán các món đặc sản Huế cho khách du lịch từ bốn bể năm châu đến tham quan di sản thế giới tại Huế.
Ngày nay chợ Ðông Ba giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Ngoài nhiệm vụ cung cấp thực phẩm và hàng tiêu dùng cho thành phố, chợ Ðông Ba còn là nơi tạo việc làm cho hàng ngàn người thất nghiệp và đóng vào ngân sách nhà nước mỗi năm hàng chục tỷ đồng tiền thuế. Chợ Ðông Ba, cầu Trường Tiền cùng với sông Hương là biểu tượng của xứ Huế thơ mộng.
Suối Nước Khoáng Nóng
Thanh Tân
Khu
nghỉ dưỡng suối nước khoáng nóng Thanh Tân ở xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh
Thừa Thiên - Huế. Đây là một khu nghỉ dưỡng hết sức lý tưởng. Ở đầu nguồn, nước
khoáng nóng đến 68ºC, luộc chín trứng gà. Trong những năm chống Mỹ cứu nước, bộ
đội bị thương được đưa về khu suối nước khoáng nóng này để điều trị vết thương
rất mau lành. Bác sĩ Dướng Quát, một trong những người từng chữa trị vết thương
cho bộ đội bằng nước khoáng nóng đã kể lại như vậy.
Bây
giờ, trên cơ sở suối nước nóng đó, Công ty nước khoáng thiên nhiên Thanh Tân đã
đưa vào khai thác loại hình du lịch nghỉ dưỡng này. Những ngày hè, có lúc du
khách đông đến hàng nghìn người, trên khắp mọi miền đất nước đều đến đây nghỉ
dưỡng. Ngoài hệ thống ao, suối nước nóng thiên nhiên, còn có hệ thống hồ bơi, hồ
tắm nằm ẩn mình giữa những giàn phong lan rất thơ mộng. Trên hồ tắm có hệ thống
nhà nghỉ được xây dựng bằng nhà tranh, nhà xây kiên cố phục vụ theo nhu cầu của
du khách. Sau khi ngâm tắm xong, du khách có nhu cầu thì được tham gia chương
trình luyện tập thể dục dưỡng sinh, thể dục dụng cụ, xông hơi nước khoáng... hết
sức hấp dẫn. Một hệ thống nhà bếp phục vụ nhu cầu ẩm thực ngay tại chỗ cũng như
dài ngày cho du khách có nhu cầu ở lại nghỉ ngơi và điều dưỡng.