-->
Đi Rồi Sẽ Đến Go will come

Translate

NẠP NĂNG LƯỢNG - BỨT PHÁ ĐƯỜNG ĐUA

Tài Liệu Thuyết Minh Quảng Nam

Khu kinh tế mở Chu Lai có điều kiện giao thông thuận lợi để kết nối các địa phương khác của Việt Nam và thế giới thông qua đường quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt, đường biển qua cảng Kỳ Hà, đường hàng không qua sân bay quốc tế Chu Lai đã được Chính phủ cho phép mở cửa bầu trời với 3 chức năng chính là trung chuyển hàng hoá quốc tế, vận chuyển hành khách và sửa chữa, bảo dưỡng máy bay hạng nặng.
Định hướng phát triển Khu kinh tế mở Chu Lai là ưu tiên thu hút các ngành công nghiệp nhẹ có khả năng kiểm soát ô nhiễm môi trường kết hợp với du lịch dịch vụ, đô thị cao cấp. Khu kinh tế mở Chu Lai có Khu thương mại tự do đầu tiên của Việt Nam được Chính phủ cho phép thành lập và hoạt động theo thông lệ quốc tế với tổng diện tích khoảng 1.700 ha, nối liền sân bay quốc tế Chu Lai và cảng biển Kỳ Hà theo mô hình 3 trong 1: sân bay - khu thương mại tự do - cảng biển; có 5 khu công nghiệp tập trung với tổng diện tích 3.000 ha, nằm cạnh quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt rất thuận lợi về giao thông; có hơn 30 km chiều dài bờ biển với cát trắng, nắng vàng là môi trường lý tưởng để xây dựng các khu du lịch, khu vui chơi giải trí cao cấp; và đặc biệt có khoảng 10.000 ha đất phát triển các khu đô thị, dân cư. Đây chính là những thế mạnh để kêu gọi đầu tư vào Khu kinh tế mở Chu Lai.

Nếu từng ngang quốc lộ 1, ghé qua Tam kỳ (Quảng Nam), bạn sẽ nhận ra một đặc trưng của thị xã này là quán cơm gà lấn lướt các quán khác. Trong hơn chục quán, quán Cơm gà Bà luận 707 Phan Chu Trinh, Tam Kỳ (ĐT : 0510. 851 498) là nổi tiếng nhất miền Trung vì lâu đời nhất, ngon nhất, sạch sẽ, vệ sinh và có chổ đậu xe hơi. Chỉ cần ghé đến một lần bạn sẽ nhớ mãi hương vị đặt biệt “Ăn một lần nhớ mãi” của cơm gà xứ Quảng miền Trung. Cơm Gà Bà Luận Tam Kỳ còn nổi tiếng hơn 50 năm trong nước và thế giới, được báo chí nước ngoài khen ngợi rất nhiều.
Quán mở chi nhánh tại TP. Hồ Chí Minh, số 43 B1 Chu văn An P. 26, Q. Bình Thạnh (ĐT : 511 0740, 899 7808) do con gái đầu phụ trách. Các món ăn chính của quán phản phất hương vị của đất Quảng miền Trung, không thể nhầm lẩn với các quán ăn Huế, Hà Nội hay các quán cơm gà khác ở Sài Gòn.
Gà ta và một số nguyên liệu chính như hành, ớt khô, tỏi, dầu (xào lòng), trà được chọn lọc và chuyển từ Tam Kỳ vào nhằm giử đúng “gu” cơm gà Bà Luận Tam Kỳ. Món chính là cơm gà, mang đậm phong cách miền Trung, thiên về săn hạt cơm với gà luộc chặt miếng, da vàng ươm, dọn với lá chanh xắt mịn đúng kiểu “con gà cục tác lá chanh”, có thể nói thịt gà ở quán Cơm gà bà Luận thịt săn hơn, vị đậm hơn, chặt ra giòn sắc hơn hẳn các quán cơm gà khác ở Sài gòn . Gà xé bóp gỏi với các vị rau thơm, theo đúng khẩu vị xứ Quảng, thơm, hơi cay nồng hương vị của tiêu và hành. Lòng xào với hương vị cay cay, ngầy ngậy và nước xốt mặn mòi khiến bạn có thể chấm hết với cả đĩa rau sống. Dua chua gồm đu đủ chín hườm, hành hương tím là một đặc sản nữa có lẽ chỉ có dân xứ Quảng mới nhận ra hương vị riêng của nó. Để làm hài lòng quý khách, gà được quán chế biến thành 9 món với đầy đủ hương vị. Ngoài ra, quán còn phục vụ cả cháo gà. Đặt biệt với Cà ry gà thơm, ngon, đậm đà; Gà nấu cá mòi là sự kết hợp tuyệt vời của cá mòi và gà, hương vị mới lạ, đậm đà, ngon tuyệt.
Đặt biệt ở đây giới thiệu với các bạn thêm một đặc sản nữa của xứ Quảng miền Trung, đó là Nem nướng Tam kỳ được làm từ thịt heo nóng, nguyên chất 100%, thơm ngon, không hàn the. Nem nướng Tam kỳ vị thịt đậm hơn, thơm và ngon hơn các loại nem khác ở Sài Gòn. Nem được se tròn trên đủa tre, nướng lên thơm lừng ăn với chuối chát, khế, rau thơm và ram, một đặc sản của Tam kỳ được làm từ bánh tráng chiên dòn.
Phía Bắc thành, đoạn sông Bà Rén làm thành rào bảo vệ vòng ngoài. Ở điểm cao khoảng trên 20m là ngọn đồi Bửu Châu án ngữ. Xưa kia đường lên đồi là những bậc thềm lót đá đư­ợc trang trí thêm nhiều tượng thú vật, nhiều nhất là tượng voi, sư tử đứng chầu. Các pho tượng này, ngày nay đã được đưa đến khuôn viên nhà thờ công giáo Trà Kiệu, một số được chuyển về Bảo tàng Chàm Đà Nẵng. Phía Nam của thành, dựa hẳn vào nhiều quả đồi sa thạch. Phía Tây có suối đổ về, trên ngọn con suối này còn sót lại ngọn tháp đẹp có tên là tháp Chiêm Sơn. Tiếc thay ngọn tháp này cũng bị hủy hoại.
Về điêu khắc đá của Simhapura cổ xưa có thể tìm thấy hình bóng rực rỡ của nó qua phòng chính giữa của Bảo tàng Chàm Đà Nẵng. Đây là thời cực thịnh của Vương quốc Chămpa từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 10 – 12 mà cả thành đô Mỹ Sơn và kinh đô Trà Kiệu đều là minh chứng lịch sử nổi bật nhất. Nói đến Simhapura, trước đây người ta thường nói đến ngôi đền chính trong Hoàng thành. Mỗi cạnh của nó dài tới 10m, chiều cao có thể lên tới 40m. Nếu còn đến ngày nay, rõ ràng đây là ngôi tháp đồ sộ nhất trong hàng kiến trúc Chămpa ở vùng Đông Nam Á. Trong đền tháp này có một cái bàn thờ lớn hình vuông, mỗi cạnh 3m, cao 1,50m. Trên đó tạo 12 vũ nữ Apsara đứng múa trước dài sen. Bàn thờ đó đã trở thành kiệt tác trong điêu khắc cổ xưa của thế giới còn lại tới hôm nay. Tất cả các đền thờ ở kinh đô Trà Kiệu đều thờ thần Siva và Visnu là hai chư thần bảo hộ cho các Vương triều Chămpa lúc bấy giờ.



Trong nhiều công trình kiến trúc còn lại khi phát hiện (1898) có tháp cao tới 24m, trong khu vực Tháp Chùa mà các sách khảo cổ, nghiên cứu về Mỹ Sơn có ký hiệu là tháp cổ Chămpa, có 2 cửa ra vào phía Ðông và phía Tây. Thân tháp cao, thanh tú với một hệ thống cột ốp. Xung quanh có 6 tháp phụ, toàn bộ ngôi tháp 2 tầng toả ra như cánh sen. Tầng trên, chóp đá sa thạch được chạm hình voi, sư tử, tầng dưới, mặt tường là hình những người cưỡi voi, hình các thiên nữ thuỷ quái. Nhưng ngôi tháp giá trị này đã bị không lực Mỹ huỷ hoại trong chiến tranh, năm 1969. Sau khi phát hiện ra khu tháp cổ Mỹ Sơn, nhiều hiện vật tiêu biểu trong đó đặc biệt là những tượng vũ nữ, các thần linh thờ phượng của dân tộc Chăm, những con vật thờ cũng như những cảnh sinh hoạt cộng đồng đã được đưa về thành phố Ðà Nẵng đặt tại bảo tàng kiến trúc Chàm. Tuy không phải là nhiều, nhưng những hiện vật này là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc tiêu biểu, nó có giá trị văn hoá của một dân tộc, nhưng hơn thế nữa, nó là những chứng tích sống động, xác thực lịch sử của một trong những dân tộc trong cộng đồng Việt Nam giàu truyền thống văn hoá.
Mỹ Sơn đã được trùng tu bởi E.F.E.O (Ecole Francaise d’Extreme Orient) trong thời gian từ 1937 đến 1944, nhưng khu vực này đã bị bom Mỹ tàn phá nặng nề trong chiến tranh. Đến năm 1975 , trong số 32 di tích còn lại, chỉ có khoảng 20 đền , tháp còn giữ được dáng vẻ ban đầu. Từ năm 1981 đến 1991, Mỹ Sơn được bảo quản và tu sửa từng phần với sự giúp đỡ về chuyên môn của công ty P.K.Z (Ba Lan). Phần lớn các tác phẩm điêu khắc ở Mỹ Sơn đã được người Pháp thu gom về Đà Nẵng vào những năm đầu thế kỷ 20 và được trưng bày tại bảo tảng Chàm. Khu di tích Mỹ Sơn đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới tháng 12 năm 1999.

Hội An là một thành phố nhỏ nằm ở miền Trung Việt Nam, thuộc tỉnh Quảng Nam. Hiện nay, Hội An có diện tích 6.000 ha diện tích tự nhiên và dân số 121.716 nhân khẩu. Thành phồ gồm có 13 đơn vị hành chính, trong đó 9 phường là: Minh An, Sơn Phong, Cẩm Nam, Cẩm Phô, Thanh Hà, Tân An, Cẩm Châu, Cẩm An, Cửa Đại và 4 xã là Cẩm Hà, Cẩm Thanh, Cẩm Kim, Tân Hiệp.
Hội An có 7 km bờ biển với nhiều bãi tắm đẹp thuận lợi cho phát triển du lịch và 01 ngư trường khá rộng với nguồn hải sản khá dồi dào, có đảo Cù Lao Chàm (rộng 1.591 ha) với nguồn đặc sản Yến Sào nổi tiếng, đồng thời là nơi rất thuận lợi để phát triển du lịch sinh thái (Biển - Đảo).
Thành phố Hội An nằm ở vùng hạ lưu ngã 3 sông Thu Bồn thuộc vùng đồng bằng ven biển Tỉnh Quảng Nam, cách Thành phố Ðà Nẵng về phía Nam 28 km.
Từ thế kỷ 16 đến 19, Hội An từng là trung tâm mậu dịch quốc tế trên hải trình thương mại đông - tây, là một thương cảng phồn thịnh nhất của xứ Đàng Trong - Việt Nam dưới triều đại các chúa Nguyễn bởi thương thuyền từ Nhật Bản, Trung Hoa, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan … thường đến đây để trao đổi, mua bán hàng hoá. Trong lịch sử hình thành và phát triển, Hội An đã được thế giới biết đến dưới nhiều tên gọi khác nhau.
Phổ biến nhất là: Faifo, Haisfo, Hoài phố, Ketchem, Cotam… Các di chỉ khảo cổ và các hiện vật, công trình kiến trúc còn lưu lại đã chứng minh Hội An là nơi hội tụ, giao thoa giữa nhiều nền văn hoá: Chăm, Việt, Trung Hoa, Nhật Bản … trong đó chịu sự ảnh hưởng nhiều nhất của văn hoá Việt và Trung Hoa.
Đến nay, khu phố cổ Hội An vẫn bảo tồn gần như nguyên trạng một quần thể di tích kiến trúc cổ gồm nhiều công trình nhà ở, hội quán, đình chùa, miếu mạo, giếng cầu, nhà thờ tộc, bến cảng, chợ… và những con đường phố hẹp chạy ngang dọc tạo thành các ô vuông kiểu bàn cờ.
Cảnh quan phố phường Hội An bao quát một màu rêu phong cổ kính trông hư hư, thực thực như một bức tranh sống động. Sự tồn tại một đô thị như Hội An là trường hợp duy nhất ở Việt Nam và cũng hiếm thấy trên thế giới. Đây được xem như một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị.
Ngoài những giá trị văn hoá qua kiến trúc đa dạng, Hội An còn lưu giữ một nền tảng văn hoá phi vật thể khá đồ sộ. Cuộc sống thường nhật của cư dân với những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian, lễ hội văn hoá đang được bảo tồn và phát huy cùng với cảnh quan thiên nhiên thơ mộng, các làng nghề truyền thống, các món ăn đặc sản … làm cho Hội An ngày càng trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách thập phương. Tháng 12 năm 1999, UNESCO đã công nhận khu phố cổ Hội An là di sản văn hoá thế giới.
Theo tài liệu thống kê, đến nay Hội An có 1.360 di tích, danh thắng. Riêng các di tích được phân thành 11 loại, gồm: 1.068 nhà cổ, 19 chùa, 43 miếu thờ thần linh, 23 đình, 38 nhà thờ tộc, 5 hội quán, 11 giếng nước cổ, 1 cầu, 44 ngôi mộ cổ. Trong khu vực đô thị cổ có hơn 1.100 di tích.
Nằm cách Hội An 3km về hướng Tây, làng gốm Thanh Hà từng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của Ðô thị cổ Hội An. Vào thế kỷ 16, 17, Thanh Hà là một ngôi làng rất thịnh đạt, nổi tiếng về các mặt hàng gốm, đất nung được trao đổi, bán buôn khắp các tỉnh miền Trung Việt Nam. Chính những người thợ gốm Thanh Hà đã làm nên và cung cấp gạch, ngói lợp, ngói lát nền cho các ngôi nhà cổ ở Hội An và các khu vực chung quanh. Hiện nay, người dân làng gốm Thanh Hà đang làm đúng những công việc và theo đúng cách cha ông họ đã làm trong những thế kỷ trước. Trong đôi bàn tay khéo léo và điêu luyện của họ, những chiếc lọ hoa xinh xắn, những bình trà, bình rượu, những chiếc ấm, bồng binh, những chum, lu, hũ, vại và cả những con vật thân thương như trâu, Bò, mào, lợn... cứ lần lượt ra đời.
Cửa Đại mang vẻ đẹp "trẻ trung và sống động" nên mới chớm hè đã đông nghìn ngịt người, trẻ con, người lớn, khuôn mặt thật tươi tỉnh, khoan khoái. Tất cả đều thoả sức nô đùa và tràn ngập trong những niềm vui.Không khí ở Cửa Đại rất trong lành và dịu nhẹ, tạo cảm giác thư thái, an nhàn cho du khách. Có rất nhiều hình thức giải trí lôi cuốn ở Cửa Đại và chắc chắn có một cái gì đó thật đặc biệt dành cho mỗi người. Khi bình minh lên, từ những khu nhà nghỉ, du khách có thể mở cửa sổ có ban công hướng ra biển để đón bình minh lên. Ngoài khơi xa kia mặt trời đang nhởn nhơ cùng với mây với gió, thấp thoáng ngoài xa những cánh buồm nhỏ đi tìm những luồng cá mới, báo hiệu một ngày mới tươi đẹp tràn về.
Về mặt kiến trúc ở Hội An, nhà cửa mang đậm nét dáng vẻ truyền thống ở các đô thị cổ ở nước ta, đó là kiểu nhà gỗ hình ống, dài 40- 60m thông suốt hai mặt phố, nội dung và hình thức kiến trúc rất đặc sắc đã tồn tại trên 200 năm.Phần lớn nhà ở có mặt tiền tiếp giáp với đường phố để buôn bán, mặt Nam hướng về bến sông có cầu cảng riêng, vẻ đẹp không kém phần hấp dẫn dành làm nơi chứa hàng hóa và các công trình phụ. Khu ở, khu sinh hoạt và thờ gia tiên đặt ở giữa kế với với sân trời sáng sủa và thông thoáng. Cạnh sân nhà có cầu nối các gian nhà với nhau để đi lại không bị mưa nắng. Trong khu ở thường được chú ý trang trí làm đẹp không gian. Trên các kết cấu kiến trúc được chạm trổ rất tinh xảo về các đề tài hoa lá chim muông,…
Chùa Cầu là ngôi chùa nằm trên chiếc cầu trong đô thị cổ Hội An, tỉnh Quảng Nam. Chiếc cầu này được các thương nhân người Nhật Bản xây dựng vào khoảng thế kỉ 17, nên đôi khi người ta còn gọi là cầ Nhật Bản. Theo truyền thuyết ngôi chùa này được coi như một thanh kiếm đâm xuống lưng con quái vật mamazu, khiến nó không quẫy đuôi, gây ra những trận động đất ở Nhật vì họ cho rằng đầu con quái vật nằm ở Ấn Độ, lưng ở Việt Nam và đuôi ở Nhật Bản. Mỗi lần nó quẫy đuôi là nó gây ra những trận động đất kinh hoàng ở Nhật Bản. Năm 1653, người ta dựng thêm phần chùa, nối liền vào lan can phía Bắc, nho ra giữa cầu, từ đó người dân địa phương gọi là chùa Cầu. Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu thăm Hội An, đã đặt tên cho chiếc cầu này là “ Lai Viễn kiều”, với ý nghĩa là “bạn phương xa đến”. Theo niên đại được ghi lại ở xà nóc và văn bia còn lại ở đầu cầu thì chiếc cầu đã được dựng lại vào năm 1817. Ngôi chùa óc lẽ cũng được dựng lại vào thời gian này.
Chiếc cầu dài khoảng 18m, có mái che, vắt cong qua lạch nước chảy ra sông Thu Bồn giáp ranh giữa hai đường Nguyễn Thị Minh Khai và Trần Phú. Chùa Cầu là một trong những di tích óc kiến trúc khá đặt biệt, mái chùa lợp ngói âm dương che kín cả cây cầu. Trên cửa chính của chùa Cầu có một tấm biển lớn chạm nổi ba chữ Hán là “Lai Viễn kiều”. Chùa và cầu đều bằng gỗ sơn son chạm trổ rất công phu, mặt chùa quay về phía bờ sông. Hai đầu cầu có tượng thú bằng gỗ đứng chầu, một đầu là tượng chó, một đầu là tượng khỉ (có lẽ được xuất phát từ ý nghĩa cây cầu được xây dựng từ năm Thân, hoàn thành năm Tuất). Tương truyền đó là những con vật mà người sùng bái thờ tự từ cổ xưa. Tuy gọi là chùa nhưng bên trong không có tượng Phật. Phần gian chính giữa thờ một tượng gỗ Bắc Đế Trấn Vũ, vị thần bảo hộ xứ sở, ban niefm vui hạnh phúc cho mọi người, thể hiện khát vọng thiêng liêng mà con người muốn gửi gắm cùng trời đất nhằm cầu mong mọi điều tốt lành. Chùa Cầu mang tính chất một ngôi chùa Hoa kiều. Ở miền Nam Việt Nam thường có các ngôi chùa Hoa, thực chất là đền thờ các vị thần hay nữ thần.
Một điều dễ thấy là tất cả các ngôi nhà cổ ở Hội An đều hình ống và lấy bộ sườn nhà làm cơ sở chịu lực. Bộ sườn ấy được cấu thành bằng sự liên kết các vì kèo. Việc liên kết ấy được thực hiện bởi các thanh xà, đó có thể là sự liên kết bằng những thanh dầm dọc gọi là kèo, kẻ hoặc là liên kết bằng các thanh dầm ngắn xếp theo chiều ngang gọi là con rường. Nhà cổ Tấn Ký gồm nhiều nếp nối với nhau, nếp thứ nhất có 6 hàng cột tạo thành 3 gian nhà, 2 gian hai bên và gian giữa. Xuất xứ của những tảng đá tròn nằm bên dưới những cây cột kia được chở về từ Thanh Hóa, chỉ có loại đá chắc khỏe này mới giúp cho những thanh cột tránh được mục ruỗng, điều đó cũng lý giải vì sao đã mấy trăm năm nay, ngôi nhà cổ này vẫn còn như nguyên trạng.
Còn các cột hiên hình vuông này lắp ghép với các thanh gỗ đây tạo thành mảng tường mặt tiền vừa giữ chức năng che chắn mưa gió cho ngôi nhà vừa làm cho ngôi nhà kín đáo hơn. Còn mí cửa gắn 2 con mắt kia là "hình xoáy âm dương lá đề", đôi mắt của ngôi nhà cũng giống như đôi mắt của con người vậy, nó là thần thái của ngôi nhà cổ, là niềm mong ước thương mãi phát đạt và đầm ấm đời sống gia đình". Vì nóc ngôi nhà chia làm hai phần. Vì nóc sát hiên được kiến trúc theo kiểu "cột trốn kẻ chuyền" (các cột được "trốn" bằng cách "mọc" lên từ các thanh xà ngang) gồm 3 hàng cột cộng với hàng cột hiên. Rồi kế tiếp hàng cột thứ 4 và thứ 5, kiến trúc theo kiểu "chồng rường giả thủ" (các rường cột chồng lên nhau giống như bàn tay 5 ngón) được chạm trổ tinh vi. Hàng cột thứ 5 và thứ 6 có kết cấu vì vỏ cua cong vồng lên in hệt vỏ cua vậy.
Du khách có thể nhận biết rằng, nếp thứ hai chạy dọc theo sân trời (vì rằng những ngôi nhà hình ống ở Hội An chung tường với nhau và ít có cửa sổ, để thông thoáng cũng như tuân theo triết lí Tam Tài của người phương Đông, chủ nhân những ngôi nhà này để một gian chính giữa đón lấy bầu trời gọi là sân trời) gồm hai tầng kết cấu và cũng theo lối "chồng rường giả thủ" quen thuộc nhưng nhỏ hơn, 2 cột vuông đứng trên tảng đá vuông với các tai cột chạm khắc hình con sóc, hòm thư, quả lựu, quả phật thủ, con dơi.
Có thể nói thêm rằng các hình chạm khắc này đều có ý nghĩa biểu trưng của nó như con dơi là biểu trưng về hạnh phúc; hòm thư: Học hành; quả lựu: Thật nhiều con cái. Đi hết nếp 2, nếp 3 lại xoay ngang gồm 4 hàng cột ăn thông lên mái. Mái lợp ngói âm dương rất dày nên thoáng mát về mùa hè, ấm áp vào mùa đông.
Từ nhà cổ Tấn Ký, ngôi nhà số 101 phố Nguyễn Thái Học, rẽ lên chùa Cầu, đầu phố bên kia ngôi chùa cổ, số 4 phố Nguyễn Thị Minh Khai là nhà cổ Phùng Hưng. Cũng như những ngôi nhà cổ khác ở Hội An, nhà cổ Phùng Hưng hình ống gồm 2 tầng, với 3 nếp nhà. Từ cửa chính ngôi nhà đi vào thấy 5 hàng cột chia ngôi nhà thành 3 gian, gian giữa rộng hơn có cửa chính nhìn thông xuống bếp, các cây cột hình tròn đứng trên tảng đá hoa sen. Hàng cột ngoài hiên lại có hình vuông đứng trên tảng đá hình vuông liên kết với nhau bằng các vì vỏ cua chạm hình 2 con cá chép. Cửa gỗ thượng song hạ bản rất tiện lợi cho việc che chắn mưa gió vào mùa đông và thông mát cho mùa hè. Vì nóc chính làm theo kiểu cột trốn kẻ chuyền quen thuộc.
Nếp 2 của ngôi nhà cũng 2 tầng 3 gian nhưng chạy dọc ôm lấy phần sân trời với 4 cột tròn đứng trên tảng đá tròn nối với nếp 1 và nếp 3 như một hành lang. Nếp 3 cũng có vì nóc tương tự. Cầu thang lên tầng 2 đặt ở nếp này.
Có thể thấy, nhà cổ Phùng Hưng có kiến trúc Nhật Bản rõ nét, ngói âm dương trên những nóc phố Hội An được "nối" với nhau nhờ vữa hồ và mật mía. Mật mía mềm, tiết ra chất chua và đây là nguồn thức ăn không bao giờ vơi cạn của cỏ, rêu và… cây xanh trên các mái phố trầm mặc Hội An.Về mùa hè, trên các mái phố có màu thâm hơn vì cỏ đã ẩn mình vào ngói, và… chúng kiên nhẫn đợi cho đến những ngày mưa nối nhau mới mạnh dạn bò ra xanh lên.
Phố cổ Hội An hàng tháng vào ngày 1 vàngày 15 thường tổ chức đêm rằm phố cổ, tất cả các ngôi nhà trong phố cổ đều thắpđèn lồng, cấm xe máy và tổ chức cáchoạt động du lịch phong phú. Vào những ngày này, tất cả các đoạn đường đều cấmxe máy và hình thành nên phố đi bộ. Hiện nay, đêm rằm Phố Cổ được tổ chức địnhkỳ vào cuối tuần.

Thông Tin Du Lịch & Tài Liệu Tuyến Điểm

Thông Tin Du Lịch Miền Trung