Quảng Bình đất không rộng, người không đông, song có bề dày văn hoá lịch sử hàng ngàn năm và được nhiều thức giả gọi là Quảng Bình địa linh nhân kiệt với những danh nhân tiêu biểu như:
Dương Văn An (1514?)
Về gia đình và tuổi trẻ Dương Văn An, hiện chúng ta chưa có tư liệu đầy đủ. Đọc bài tựa Ô Châu Cận Lục chỉ thấy ông tóm lược mấy câu: ''Tôi là học trò, sinh trưởng ở đất này, thấm nhuần giáo hóa đã lâu, thi đậu tiến sĩ năm Đinh Mùi". Năm Đinh Mùi là năm 1547, đó là năm Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyễn mới lên ngôi nên mặc dù triều đình có biến động vẫn cố gắng theo lệ cũ mở các khoa thi hương và thi hội để trấn tĩnh lòng dân và chọn người ra giúp đỡ. Sách Đại Việt lịch triều đăng khoa lục ghi rõ ông đỗ tiến sĩ vào năm 30 tuổi. Căn cứ vào tài liệu này, chúng ta có thể tính ra năm sinh của ông là 1514, tức là năm Giáp Tuất, đời vua Lê Tương Dực.
Qua những lời tự thuật ngắn ngủi trên, chúng ta còn biết, trước khi đi thi, ông lớn lên và theo đường nho học tại quê nhà. Vùng này, lúc bấy giờ là một vùng dân rất hiếu học và nhiều người đỗ đạt khá. Nhưng đến ông mới có người đỗ đại khoa. Xem Đăng Khoa Lục thấy ông là người Quảng Bình thứ hai đỗ tiến sĩ. Việc ông đỗ đạt như vậy không phải là việc bình thường trên một vùng đất lúc đó còn xa trung tâm chính trị và văn hóa của đất nước.
Sau ngày thi đỗ, Dương Văn An được triều đình Mạc bổ đi làm quan. Theo quan chế thời ấy, những người đỗ đại khoa đều được bổ dụng làm tri huyện hoặc viên ngoại lang. Từ chức vị này sẽ thăng lên phó rồi hiến sát sứ lên đô cấp sự trung. Năm Ất Mão (1555), khi viết bài tựa sách Ô Châu Cận Lục, ông đã được giữ chức Lại Khoa đô cấp sự trung, tước Sùng Nham Bá. Chỉ trong 8 năm mà lên được chức ấy, rõ ràng là ông đã không gặp trắc trở gì trên đường hoạn nghiệp.
Cũng theo Đăng Khoa Lục, từ chức đô cấp sự trung, ông được thăng dần lên đến chức Tả Thị Lang bộ lại. Chức quan lớn nhất của ông là Thượng thư (không rõ là bộ nào). Lúc làm Thượng thư, ông được phong lên tước Sùng Nham Hầu. Khi mất, -không rõ mất tại chức hay sau ngày về trí sĩ- ông còn được triều đình truy phong Tuấn Quận Công. Ông giữ chức quan nói trên và mất vào năm nào, hiện chưa thấy có tài liệu nào nói rõ. Năm 1553, trong lúc đang giữ chức Lại Khoa Đô Cấp Sự Trung thì ở quê nhà, không rõ cha hay mẹ mất, ông phải từ Đông Kinh về chịu tang và theo lệ gọi là đình gian, ở nhà cho đến khi hết khó. Lúc này ông được rảnh rỗi xem sách. Nhân có hai người học trò cùng làng chia nhau viết hai tập sách về hai phủ Triệu Phong và Tân Bình và đưa ông xem, ông thấy bên trong ''hình trạng các sông núi, tên gọi các sản vật, phong tục thói quen thế nào, nhân vật hay dở ra sao, đều rõ ràng như trên bàn tay'' và rất lấy làm mừng. Nhưng có điều ông không nói ra mà chúng ta có thể ngầm hiểu, là hai tập sách, do trình độ của hai người học trò còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy, ông nảy ra ý định nâng cao thành một quyển địa lý lịch sử đầy đủ và sâu sắc hơn. Ý định ấy, với một người yêu làng yêu nước như ông, quả là không thể cưỡng lại nổi. Ông bèn bỏ thì giờ ''khảo thêm các sách sử, tham chước những truyền miệng, chỗ rườm rà thì bỏ bớt, chỗ sơ lược thì bổ sung, đặt tên là Ô Châu Cận Lục. Hai chữ cận lục nói rõ ý đồ khiêm tốn của ông muốn giới hạn nội dung từ cuối đời Trần trở lại, chưa dám đi xa hơn vào lịch sử.
Qua sự việc trên đây, rõ ràng quyển sách về cơ bản, là dựa vào hai tập của hai người học trò Tuy Lộc. Vậy thì phần gia công của ông đến đâu? Đọc xong, chúng ta có thể nghĩ rằng, phần tư liệu về núi, sông, thành thị, đền chùa, quan chế, nhân vật, phong tục, đồ bản, chính là phần ông thêm bớt, còn phần luận thì hoàn toàn do chính ông viết. Tuy vậy, không thể không nhận thấy rằng, giữa Ô Châu Cận Lục và hai tập sách về Tân Bình, Triệu Phong nói trên đã có những khác biệt lớn: khác biệt về quan điểm địa lý, nhân văn, bỏ cách chia hai phủ riêng mà nhập lại thành một vùng thống nhất về ranh giới, thuần nhất về phong tục, tập quán sinh sống, đồng nhất về văn hóa, lịch sử, khác biệt về mục đích, sách viết ra không chỉ nhằm cung cấp tư liệu mà chủ yếu là để phát huy truyền thống tốt đẹp, khắc phục thói hư tật xấu trong nhân dân, hay nói như tác giả, để ''để khuyến khích và răn ngừa'' (bao biếm). Những khác biệt này, cùng với những khác biệt do phần sau bổ sung của ông đưa lại, đã khiến bóng dáng hai tập sách cũ mất hẳn đi, đến nổi, dù Dương Văn An đã nói rõ, các tác giả lớn đời sau như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú... đứng trên lập trường của Lê, Nguyễn không thích gì triều Mạc, vẫn phải xem Ô Châu Cận Lục là tác phẩm hoàn toàn của ông, của riêng ông.
Qua Ô Châu Cận Lục, người đọc, dù hiện nay cũng vậy, không phải chỉ ''thấy'' như Dương Văn An đã ''thấy'' trong hai tập sách về Tân Bình và Triệu Phong mà cảm xúc, cảm nhận sâu sắc về đất nước tươi đẹp, giàu có, thiêng liêng, về nhân dân cần cù dũng cảm, về cha ông có tinh thần hiếu học, có chí khí anh dũng, có đạo đức cao cả, từ đó thấy mình thêm gắn bó với quê hương đất nước. Viết về địa lý lịch sử mà truyền cảm được như vậy, bởi vì, trước hết, Dương Văn An đã có một trái tim nối liền với từng con sông ngọn núi, từng hòn đất bờ cây của nơi chôn rau cắt rốn và đã nhập lòng mình vào mọi sự vật, thổi cho nó một cuộc sống, một linh hồn.
Là một cuốn sách địa lý, Ô Châu Cận Lục ghi lại những tên làng, tên núi, tên sông, những sản vật, những con chim con thú, những thành thị, chợ búa, nhà trạm đồn binh, danh lam thắng tích, những ngành nghề và tập quán sinh sống... Nhờ thế, chúng ta biết được đất đai, thổ nhưỡng cùng các nghề thủ công thời ấy, hiểu được quá trình khai cơ lập nghiệp của cha ông trên đất quê hương. Là một cuốn sách lịch sử, Ô Châu Cận Lục ghi lại cho chúng ta tên tuổi của bao nhiêu người con Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế đã làm rạng rỡ đất nước, đã biến dải đất xa xôi một thời này thành trù mật, phì nhiêu, kể lại cho chúng ta những truyền thuyết xa xưa về các vùng đất, các đền chùa, các thành quách, khiến lịch sử thêm sâu thẳm, thêm vang vọng và kết hợp vào cuộc sống, những truyện cổ dân gian nuôi dưỡng mãi điều ngay lẽ phải trong lòng người...
Những ngọn núi cao, những con sông rộng đã được Dương Văn An miêu tả bằng những dòng chữ đầy hình ảnh, đầy sức khêu gợi như tả bằng chính tâm hồn của mình và của nhân dân. Đây là ngọn núi Mã Yên ở huyện Lệ Thủy "Thế núi cao lớn, hình trạng quanh co, chỗ đứt chỗ liền, nơi nghiêng nơi đứng, trong xa tựa cái yên ngựa; có trái núi như con ngựa phi nhanh, muôn nghìn trạng thái, trăm vạn tinh thần, là ngọn núi chót vót giữa nghìn muôn núi". Những câu viết vừa mang tính cách địa lý, vừa là những nét vẽ sống động của một bức tranh. Núi không đứng lặng, núi là ngựa đi, ngựa chạy, như hành quân cùng dân tộc. Khi ông tả núi Hải Vân, chúng ta lại bắt gặp một chất thơ tràn trề: "Chân sát lợi biển, ngọn ngất từng mây, núi chia hai đường nam bắc, mây mưa đón khách đi về...". Tả rất gọn mà đầy đủ, không thể lầm với một ngọn núi nào khác, "Mây mưa đón khách đi về", thật là gần gũi, ấm áp, thần tình. Núi thì thế, còn trên sông, một bến đò Dã Độ cũng gợi lên trong cảnh trời nước mênh mang một cái gì rất quen thuộc: "Hai nguồn Viên Kiều và Cảo Giang rót đến vừa rộng vừa sâu, hai bờ cao thấp so le, vài bãi nông sâu, rộng hẹp; cỏ thơm như nệm trải, sóng gợn tựa sóng giăng, cánh diều phản chiếu bóng chiều soi, con đò quay ngang cơn gió thổi..."
Có lúc, ông có những tứ thơ rất sáng tạo. Chẳng hạn, khi tả vùng cát Đại Trường Sa: "Đất Trường Sa hóa nhà trạm, trời địa hải làm lọng che". Hình ảnh hóa bầu trời trên vùng cát mênh mông thành chiếc lọng thì thật là vừa đẹp, vừa sâu, vừa mới một cách bất ngờ. Bút pháp địa lí mà đạt đến tính văn học như vậy rất hiếm thấy.
Ông biểu dương những con người Ô Châu kiên quyết chống giặc Minh xâm lược: "Ôi xem cái mức hơn kém của nhân vật, quan hệ đến cơ an nguy của nước nhà, như cái đức trọng nghĩa của Đặng Tất, thật là nhân tài của cả nước chứ đâu phải nhân tài riêng của Ô Châu?". Với Đặng Dung, những lời nhận định của ông cũng xác đáng như vậy: "Lấy toán quân cô đơn mà phá giặc mạnh giữa thời buổi nguy vong, tức là Trương Thế Kiệt đối với Đế Bính nhà Tống vậy ! Có thể theo thường lệ mà nghị luận nhân tài ư?". Điều không thể không ghi nhớ là, trong khi biểu dương, ông đã để lại cho chúng ta tên tuổi nhiều nhân vật của quê hương Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên tưởng như đã chìm mất trong xa xưa của quá khứ. Không có ông và Ô Châu Cận Lục, làm sao chúng ta có thể hiểu được cha ông ta với sự nghiệp cứu nước hiển hách như của Hà Công (ở La Chữ, huyện Hương Trà), Nguyễn Tử Hoan (ở Quảng Trạch), của Phạm Thượng Tướng (ở Đại Phong), Nguyễn Danh Cả (ở Tuy Lộc, huyện Lệ Thủy) v.v... những tâm hồn trong sạch như tri huyện họ Lê (ở Cam Lộ), lấy "kinh luân để dạ là bao của" để xem cảnh "thanh bạch truyền gia (của mình là) chẳng phải nghèo", hay như Nguyễn Quận (ở Hải Lăng) đi đánh giặc, không lấy của cải mà chỉ đem về một lá cờ chiến thắng. Đúng là nếu không có những trang ghi chép ấy, lịch sử Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên chúng ta đã phải có nhiều trang để trống.
Dưới ngọn bút của Dương Văn An, đất nước quê hương hiện lên giữa tâm hồn ta, ngọt ngào, nóng hổi và thiêng liêng biết bao, bóng hình con người Thuận Hóa đứng lên trong ta, dễ yêu và dũng cảm biết bao; thực sự là ngọn bút có tài, lại được dẫn dắt với một trái tim yêu nước, yêu quê hương tha thiết. Cho nên, nếu Ô Châu Cận Lục được xem như một tác phẩm địa phương chí có giá trị thì thành công ấy trước hết là của dòng máu đỏ trong huyết quản, trong tâm hồn ông. Điều này không thể gì phủ nhận.
Tuy còn nhiều hạn chế vẫn không làm lu mờ cái điểm hồng, là tình yêu cùng với niềm tự hào về đất nước và nhân dân quê hương, cháy rực trong từng trang Ô Châu Cận Lục. Tấm lòng ấy, tự nó là ánh sáng, là linh hồn quyển sách. Với một tác phẩm duy nhất, sự đóng góp của Dương Văn An vào kho tàng văn hóa chung của quê hương của đất nước chưa phải là lớn. Nhưng, với chúng ta, Ô Châu Cận Lục là quyển sách đầu tiên viết về Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và ông là tác giả đầu tiên của địa phương. Mọi sự mở đầu bao giờ cũng đáng hoan nghênh và ghi nhớ. Điều này càng có ý nghĩa hơn khi chúng ta biết rằng trước ông và Ô Châu Cận Lục, chúng ta chỉ có một bài ''Thuật hoài'' của Đặng Dung, một bài biện của Bùi Dục Tài, mấy bài thơ của các nhân vật mà ông đã ghi lại và dù kể cả người các nơi viết về Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên như Trương Hán Siêu, Lê Thánh Tông... thì tất cả vẫn còn là một con số quá khiêm tốn. Hơn thế, sau ông, cũng phải đến hơn 100 năm chúng ta mới có được một tác phẩm và một tác giả thứ hai: "Hoa vân cảo thị'' của Nguyễn Hữu Dật, khiến chỗ đứng và quyển sách của ông sống mãi trong lịch sử văn hóa Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên. Không những thế, Ô Châu Cận Lục còn đứng vững qua sự sàng lọc của hơn 400 năm để đến với chúng ta, tự khẳng định là một tác phẩm, một tài sản có giá trị trong vốn văn hóa chung của dân tộc. Cái giá trị ấy trong quá khứ đã được thử thách hơn một lần: Lê Quý Đôn khi viết Đại Việt thông sử và Phủ Biên Tạp Lục đã sử dụng Ô Châu Cận Lục. Các nhà biên soạn bộ Đại Nam Nhất Thống Chí của Quốc Sử Quán triều nhà Nguyễn cũng luôn luôn trích dẫn cuốn sách của Dương Văn An, xem như một nguồn tư liệu quý báu.
Thiếu quyển sách, chúng ta cảm thấy như hẫng đi một đoạn truyền thống, một chiều dài lịch sử, một mảng của tâm hồn đất nước.
Chúng ta càng biết ơn Dương Văn An và Ô Châu Cận Lục đã nối dài tầm nhìn của mình vào quá khứ của quê hương, nối liền sức mạnh của mình hôm nay vào sức sống nghìn đời của dân tộc, từ đó nhận rõ thêm trách nhiệm đang đặt ra trước mắt đối với hiện tại và tương lai của Tổ quốc
Đào Duy Từ (1572 – 1634)
Là nhà quân sự và nhà văn hoá, danh thần thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, người có công giúp chúa Nguyễn xây dựng cơ nghiệp ở Đàng Trong. Đào Duy Từ, hiệu là Lộc Khê, quê ở làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn (nay là Vân Trai, Tĩnh Gia, Thanh Hoá) vốn là người tinh thông sử sách, có tài văn võ nhưng không được đi thi vì là con nhà ca xướng. Ông uất ức rời quê hương vào Đàng Trong lập nghiệp.
Khi mới vào Nam, do gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, ông phải đi ở chăn trâu cho nhà giàu ở Bình Định. Ông chủ là người ham mê văn học, đã phát hiện ra Đào Duy Từ là người có tài, đã tiến cử Đào Duy Từ cho quan Khám lý Trần Đức Hòa. Vì mến tài của Đào Duy Từ, Trần Đức Hòa đã gả con gái cho, đồng thời tiến cử Đào Duy Từ cho Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Sau cuộc gặp gỡ với Đào Duy Từ, Chúa Sãi đã phong cho ông làm Nha uý Nội tán. Được Chúa Nguyễn tin tưởng, trọng dụng, ông đã hết lòng tận tụy giúp chúa Nguyễn về tổ chức quân sự, chính trị, văn hóa.
Năm Canh Ngọ 1630, ông chủ xướng việc thiết kế và chỉ đạo xây dựng hai công trình phòng thủ quan trọng là Lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình (1630) và Lũy Thầy từ cửa sông Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu (Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình). Đây là chiến lũy quan trọng, giúp chúa Nguyễn có thể phòng thủ hiệu quả trước nguy cơ tấn công của quân Trịnh.
Sinh thời, ông sáng tác nhiều tác phẩm văn, thơ, và nhiều ca khúc rất giá trị; biên đạo một số điệu múa được lưu truyền rộng rãi. Đào Duy Từ là người Việt đầu tiên làm thơ lục bát và là người có công phát triển nghề hát bội ở Đàng Trong, là người khởi thảo tuồng Sơn Hậu. Ông đồng thời là tác giả bộ sách quân sự đặc biệt "Hổ trướng khu cơ" và "Ngọc Long cương vãn" (văn học). Năm 1634, ông bị ốm nặng và chết. Sau khi ông mất, chúa Nguyễn truy phong công thần, đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu.
Mặc dù ông không phải là người quê ở đây nhưng là người có công rất lớn đối với Quảng Bình nên được nhân dân mến mộ, xếp vào danh nhân tiêu biểu của Quảng Bình.
Nguyễn Hữu Dật (1603 – 1681)
Nguyễn Hữu Hào (1646 – 1713)
Nguyễn Hữu Cảnh (1650 – 1700)
Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh (1650 1700) là một vị tướng quốc, một bậc công thần đời chúa Nguyễn Phúc Chu (Hiến Tông Hiếu Minh Hoàng đế (1691-1725 ), sinh quán Quảng Bình, một tướng lãnh tài ba, một nhà quản lý hành chính xuất sắc; người mở nước về phía Nam và cũng là người có công xây dựng nền móng cho Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm Canh Dần (1650) tại vùng đất nay thuộc huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình. Theo các nhà nghiên cứu thì tổ tiên của Nguyễn Hữu Cảnh là Đinh Quốc Công Nguyễn Bặc - một vị tướng tài ba xuất sắc của vua Đinh Tiên Hoàng; ông cũng là cháu mấy đời của nhà chính trị đại tài của nước ta - Nguyễn Trãi. Cha ông là Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Đạt - người đã góp nhiều công sức cho chúa Nguyễn trong cuộc đối đầu với chúa Trịnh.
Lớn lên trong thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, Nguyễn Hữu Cảnh chuyên tâm luyện tập võ nghệ để có thể theo cha đi chinh chiến. Tuy còn trẻ tuổi, nhưng ông đã lập được nhiều chiến công và đã được chúa Nguyễn Phúc Tần phong chức Cai cơ (một chức võ quan thuộc bậc cao) vào lúc tuổi độ đôi mươi.
Năm 1681, cha ông mất, ông cùng Nguyễn Hữu Hào - anh ruột của ông, nối nghiệp cha. Trong công việc và trong quan hệ xử thế, Nguyễn Hữu Cảnh rất cẩn trọng nên được lòng mọi người. Năm 1692, tình hình biên giới Việt Chiêm căng thẳng. Vua Chiêm là Bà Tranh đem quân đánh Diên Ninh (Phú Yên). Chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh đem quân đánh dẹp. Vùng đất mới được đặt tên là trấn Thuận Thành và vị quan Trấn thủ đầu tiên vùng này là Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh. Sau khi bình định trấn Thuận Thành, Nguyễn Hữu Cảnh đã tổ chức ngay cho nhân dân khẩn hoang, ổn định cuộc sống và thiết lập trật tự xã hội, khiến trấn Thuận Thành ngày càng vững vàng phát triển.
Đầu xuân Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn Phúc Chu lại cử Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống suất vào Nam kinh lược và thiết lập bộ công quyền, đặt nền pháp trị và xác định cương thổ quốc gia. Theo đường biển, quân của Nguyễn Hữu Cảnh đi ngược dòng Đồng Nai đến cù lao Phố (một cảng sầm uất nhất miền Nam bấy giờ). Sau đó, Nguyễn Hữu Cảnh thanh tra vùng đất Sài Gòn và đặt hai đơn vị hành chính đầu tiên tại Nam Bộ là huyện Phước Long và huyện Tân Bình, dưới quyền của phủ Gia Định. Theo Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí thì "Đất đai mở rộng hơn ngàn dặm, dân số có thêm bốn vạn hộ". Nguyễn Hữu Cảnh cất đặt các bộ phận trông coi mọi việc như Ký lục (trông coi về hành chính, thuế khóa), Lưu thủ (trông coi về quân sự) và Cai bộ (trông coi về tư pháp). Giúp việc cho các quan là các Xá ty và một số đơn vị vũ trang. Đối với người Hoa, Nguyễn Hữu Cảnh tập hợp họ thành những tổ chức hành chính riêng như xã Thành Hà (Trấn Biên), xã Minh Hương (Phiên Trấn). Ông cho chiêu mộ nhân dân đi khẩn hoang lập ấp.
Đại Nam liệt truyện (tiên biên quyển 1) ghi rõ Nguyễn Hữu Cảnh đã "chiêu mộ dân phiêu tán từ châu Bố Chánh (nay là Quảng Bình) trở vào Nam vào đất ấy (tức là đất Trấn Biên và Phiên Trấn), rồi đặt xã thôn, phường ấp, định ngạch tô thuế và ghi tên vào sổ đinh". Như vậy, biên giới nước ta đã mở rộng đến vùng này. Năm 1700 Nguyễn Hữu Cảnh cầm quân tiến xuống vùng biên giới Tây Nam ngày nay. Nhờ uy danh, Nguyễn Hữu Cảnh đã nhanh chóng giải quyết tình hình bất an của vùng này. Nhưng sau đó, do bị bệnh nặng, Nguyễn Hữu Cảnh qua đời - lúc ấy ông mới tròn 50 tuổi.
Nguyễn Hữu Cảnh là vị tướng cầm quân đã biết dùng tài đức để phủ dụ dân chúng. Ông đã có công lớn trong sự nghiệp Nam tiến của nhân dân ta; ông đã mang lại cuộc sống ấm no cho nhân dân. Do đó, ông đã được quần chúng kính phục, nhớ ơn, tôn thờ. Ngày nay đền thờ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh được bảo tồn ở nhiều địa phương. Trong đó, lớn nhất là ở An Giang, Đồng Nai và Quảng Bình. Độc đáo hơn nữa là ở Nam Vang cũng có đền thờ ông.
Đầu xuân Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn Phúc Chu lại cử Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống suất vào Nam kinh lược và thiết lập bộ công quyền, đặt nền pháp trị và xác định cương thổ quốc gia. Theo đường biển, quân của Nguyễn Hữu Cảnh đi ngược dòng Đồng Nai đến cù lao Phố (một cảng sầm uất nhất miền Nam bấy giờ). Sau đó, Nguyễn Hữu Cảnh thanh tra vùng đất Sài Gòn và đặt hai đơn vị hành chính đầu tiên tại Nam Bộ là huyện Phước Long và huyện Tân Bình, dưới quyền của phủ Gia Định. Theo Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí thì "Đất đai mở rộng hơn ngàn dặm, dân số có thêm bốn vạn hộ". Nguyễn Hữu Cảnh cất đặt các bộ phận trông coi mọi việc như Ký lục (trông coi về hành chính, thuế khóa), Lưu thủ (trông coi về quân sự) và Cai bộ (trông coi về tư pháp). Giúp việc cho các quan là các Xá ty và một số đơn vị vũ trang. Đối với người Hoa, Nguyễn Hữu Cảnh tập hợp họ thành những tổ chức hành chính riêng như xã Thành Hà (Trấn Biên), xã Minh Hương (Phiên Trấn). Ông cho chiêu mộ nhân dân đi khẩn hoang lập ấp.
Đại Nam liệt truyện (tiên biên quyển 1) ghi rõ Nguyễn Hữu Cảnh đã "chiêu mộ dân phiêu tán từ châu Bố Chánh (nay là Quảng Bình) trở vào Nam vào đất ấy (tức là đất Trấn Biên và Phiên Trấn), rồi đặt xã thôn, phường ấp, định ngạch tô thuế và ghi tên vào sổ đinh". Như vậy, biên giới nước ta đã mở rộng đến vùng này. Năm 1700 Nguyễn Hữu Cảnh cầm quân tiến xuống vùng biên giới Tây Nam ngày nay. Nhờ uy danh, Nguyễn Hữu Cảnh đã nhanh chóng giải quyết tình hình bất an của vùng này. Nhưng sau đó, do bị bệnh nặng, Nguyễn Hữu Cảnh qua đời - lúc ấy ông mới tròn 50 tuổi.
Nguyễn Hữu Cảnh là vị tướng cầm quân đã biết dùng tài đức để phủ dụ dân chúng. Ông đã có công lớn trong sự nghiệp Nam tiến của nhân dân ta; ông đã mang lại cuộc sống ấm no cho nhân dân. Do đó, ông đã được quần chúng kính phục, nhớ ơn, tôn thờ. Ngày nay đền thờ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh được bảo tồn ở nhiều địa phương. Trong đó, lớn nhất là ở An Giang, Đồng Nai và Quảng Bình. Độc đáo hơn nữa là ở Nam Vang cũng có đền thờ ông.
Nguyễn Hàm Ninh (1808 - 1867)
Ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, được người cô nuôi cho ăn học. Năm Kỉ Sửu (1829) đỗ Tú tài đến năm Tân Mão (1831) đỗ thủ khoa kì thi Hương, được bổ Tri huyện Lục Ngạn (Bắc Giang) năm 23 tuổi, quen thân với Cao Bá Quát, ông nhiều lần bị thăng giáng, đang làm Quốc học độc thư bị gièm pha phải thôi việc; đang làm Chủ sự phủ Tôn nhân bị cách chức; đang làm Án sát Khánh Hòa, bị thuyền buôn bắt chở sang Trung Quốc nên khi về lại bị triều đình cách chức, rồi bị đưa ra Đà Nẵng. Sau đó, ông được phục chức cũ, được cử làm trước tác ở Viện Hàn Lâm, nhưng một lần nữa lại bị cách chức.Ông tự là Thuận Chi, hiệu là Tĩnh Trai, người làng Phù Hoá, sau dời đến làng Trung Thuần xã Quảng Lưu, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Nguyễn Hàm Ninh nổi tiếng hay chữ. Ông là bạn xướng hoạ của Cao Bá Quát. Ông là tác giả của các tập thơ"Tĩnh Trai thi tập", "Tĩnh trai văn tập" (chữ Hán), một bài văn tứ lục Phản thúc ước và một số bài thơ, ca trù (chữ Nôm). Bài văn Nôm Phản thúc ước là bài văn được đọc trong lễ tế thần theo tục lệ hằng năm ở nông thôn. Thông thường các văn tế thường khuyên dân làng sống an phận, nhẫn nhục chịu đựng những bất công trong xã hội, còn Phản thúc ước chống lại điều đó, công kích rất mạnh bọn cường hào, vạch trần những ung nhọt của xã hội.
Hoàng Kế Viêm (1820 - 1909)
Ông còn gọi là Hoàng Tá Viêm, quê ở làng Văn La, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, nhưng sinh ở Khánh Hoà là nơi cha ông làm quan.
Sau khi đỗ cử nhân (1843), ông ra làm quan qua nhiều đời vua triều Nguyễn. Năm 1870, ông cầm quân đánh dẹp các toán phỉ trên vùng biên giới phía Bắc, thu phục được tướng Cờ đen Lưu Vĩnh Phúc.
Khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, ông đứng về "Phe chủ chiến" do Thượng thư Tôn Thất Thuyết đứng đầu. Năm 1873, đại úy hải quân Pháp Francis Garnier đem quân theo sông Hồng lên chiếm thành Hà Nội và chuẩn bị đánh các tỉnh khác ở đồng bằng sông Hồng. Triều đình sai Hoàng Kế Viêm tập hợp quân phòng thủ ở các nơi. Ông cùng lực lượng của mình phối hợp với quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đến phục kích ở Cầu Giấy (Hà Nội) và dành được thắng lợi lớn.
Năm 1883, đến lượt đại tá hải quân Pháp Henri Rivière đánh và chiếm được thành Hà Nội, song cũng lại bị quân của Hoàng Kế Viêm và Lưu Vĩnh Phúc giết chết ở Cầu Giấy ngày 19 tháng 5 năm 1883.
Sau khi kí với Pháp hiệp ước Hacmăng (Hamland) (25-8-1883), triều đình Huế ra lệnh cho Hoàng Kế Viêm lúc đó đang đóng ở Sơn Tây rút quân về Kinh, nhưng Hoàng Kế Viêm không tuân lệnh. Sau khi hai thành Sơn Tây và Hưng Hóa thất thủ, ông buộc phải về Huế chờ lệnh. Giặc Pháp và phong kiến đầu hàng đã phong ông nhiều chức lớn hòng mua chuộc, dụ dỗ ông, lợi dụng uy tín của ông trong việc phái ông ra Quảng Bình kêu gọi, phủ dụ dân chúng, nhưng chúng đã thất bại. Năm 1884, ông được phong làm Thái tử Thiếu bảo, Cơ mật viên Đại thần. Năm 1887, ông nghỉ hưu, về quê sống đến khi mất. Ông là tác giả của một số tác phẩm có giá trị về văn học, lịch sử.
Nguyễn Phạm Tuân (1842 – 1879)
Huỳnh Côn (1850 – 1952)
Bạch Xỉ (1855 – 1897)
Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn (1879 – 1947)
Trần Mạnh Đàn (1882 – 1949)
Lưu Trọng Lư (1911 – 1991)
Về làng Hạ Trạch, huyện Bố Trạch nơi dải đất gối đầu lên phía bờ Nam sông Gianh cùng chung với các hương danh Bắc, Thanh Mỹ, Hạ Trạch, chúng ta từng biết có một tài năng ở đó. Tài năng đó được sinh ra trong một gia đình mà hầu hết từ người cha là Lưu Trọng Kiến và cả ba anh em Lưu Trọng Tuần, Lưu Kỳ Linh, Lưu Trọng Lư đều lớn lên cùng theo đòi bút nghiệp và đều cũng đã lưu lại cho đời sau những tác phẩm văn học có giá trị.
Từ năm 1911 khi tiếng khóc của cậu quý tử dòng hợ Lưu làng Hạ cất lên, ai hay biết được điều gì mai kia sẻ đến. Thế rồi thời gian trôi qua, kể từ thập niên 30- 40 của thế kỷ 20, làng Hạ mới biết rằng: quê hương có một nhà thơ xuất hiện, cậu bé khóc oa oa ngày nào, không ai khác chính là Lưu Trọng Lư
Sinh thời, trong sự nghiệp thơ ca, Nhà thơ lấy hai câu thơ tuyên ngôn của mình:
Sinh thời, trong sự nghiệp thơ ca, Nhà thơ lấy hai câu thơ tuyên ngôn của mình:
Đi giữa lòng nhân dạ ngẩn ngơ
Vì thương người lắm phải say thơ.
Lưu Trọng Lư đã truyền lại chữ “Nhân” cho con cháu, cho bạn đọc, để lại nhiều cái hay, cái đẹp trong cuộc sống, trong lòng mọi người dân Hạ Trạch cũng như nhân dân cả nước. Sự say thơ của nhà Hàn sĩ họ Lưu “đã khẳng định tấm lòng nhân của ông như bao nhà tư tưởng dân tộc”(Đỗ Minh Tuấn). Tư tưởng ấy được khắc đậm nơi mà nay đặt mô danh nhân, nổi bật trên vòm mái hình chữ Nhân do con ông là Kiến trúc sư Lưu Trọng Hải thiết kế. Có ghi câu phương ngôn của Nhà thơ nổi rõ: “Tôi thà bị lừa còn hơn là không tin vào con người”.
Lớn lên, ông học hành đỗ đạt, vừa dạy học vừa làm thơ và đã từng ghé nhiều nơi: Huế, Hội An, Hà Nội…
Cùng thời Lưu Trọng Lư trên dải đất miền Trung có Tế Hanh (Quảng Ngãi), Tố Hữu (Thừa Thiên), Chế Lan Viên (Quảng Trị), Hàn Mặc Tử, Nguyễn Xuân Sanh (Quảng Bình), Xuân Diệu (Hà Tỉnh) đều là những tài hoa thơ. Trong bạn bè cùng trang lứa, sau Hàn Mạc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên đến Lưu Trọng Lư giờ lần lượt thành người thiên cổ nhưng họ bất tử, ghi đậm tuổi tên trong ký ức của chúng ta. Đã có người ví Lưu Trọng Lư là chủ soái của phong trào thơ mới nền Văn học Việt Nam năm 30- 45. Cách gọi ấy suy cho cùng là đúng nghĩa. Ông đã đi tiên phong thi đàn Việt Nam một thời.
Tập thơ “ Tiếng Thu” là ghi dấu đậm nét. Trong cuộc bút chiến gay gắt giữa hai luận điểm nghệ thuật, vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh, ông là người có những đóng góp xuất sắc đáng kể. Việc ông khởi xướng bảo vệ cho tiếng nói nghệ thuật là muốn tìm đến cái đích thực của sáng tạo. Có nghĩa Văn học phải là cái hay, cái đẹp đem đến lợi ích và mọi người thừa nhận. Cuối đời bút nghiệp của Lưu Trọng Lư tham gia nhiều thể loại sang tác: Kịch, Tiểu thuyết, Hồi ký, Tùy bút, Truyện ngắn…nhưng nhà thơ là ngọn đèn tỏa sáng.
Với tấm lòng Nhân vô hạn, bộc lộ rõ từng câu chữ, tạo ấn tượng trong lòng bạn đọc là tập thơ Tiếng Thu in năm 1940 tại Hà Nội và tái bản năm 1991, năm Nhà thơ qua đời.
Hiện nay, trong di cảo của Ông, còn nhiều bản thảo nghiên cứu có giá trị mà Sương phụ nhà thơ Tôn Nữ Lê Minh cùng các con lưu giữ lại được.
Bao nhiêu sách báo, bao nhiêu bài viết nghiên cứu về Thi sĩ họ Lưu còn chưa phai màu mực. Thời cùng sống, một lần Nhà văn Nguyễn Đình Thi- chủ tịch Hội liên hiệp VHNT Việt Nam đã có một nhận xét gọn mà đủ về Lưu Trọng Lư: “ Thơ Lưu Trọng Lư chân thật, hồn nhiên, dịu dàng nhiều bài mình thích”
Trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh- Nhà phê bình văn học tâm sự: “Mỗi lúc buồn đến, tôi lại trở về với Lưu Trọng Lư. Bởi vì thơ Lư nhiều bài thật không phải thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật mà chính tiếng lòng thổn thức cùng hòa trong tiếng thổn thức của lòng ta”.
Ngày 10-8-1991, Nhà thơ mất, nhiều vị lãnh đạo của các cơ quan Nhà nước và Chính phủ và đại văn nghệ sĩ của tỉnh đến viếng, dâng hương. Bên cạnh lời viếng của đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười và Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn có bài thơ của nhà thơ Tố Hữu, Nhà thơ cùng thời đã viếng Ông bài thơ tâm niệm:
Cùng thời Lưu Trọng Lư trên dải đất miền Trung có Tế Hanh (Quảng Ngãi), Tố Hữu (Thừa Thiên), Chế Lan Viên (Quảng Trị), Hàn Mặc Tử, Nguyễn Xuân Sanh (Quảng Bình), Xuân Diệu (Hà Tỉnh) đều là những tài hoa thơ. Trong bạn bè cùng trang lứa, sau Hàn Mạc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên đến Lưu Trọng Lư giờ lần lượt thành người thiên cổ nhưng họ bất tử, ghi đậm tuổi tên trong ký ức của chúng ta. Đã có người ví Lưu Trọng Lư là chủ soái của phong trào thơ mới nền Văn học Việt Nam năm 30- 45. Cách gọi ấy suy cho cùng là đúng nghĩa. Ông đã đi tiên phong thi đàn Việt Nam một thời.
Tập thơ “ Tiếng Thu” là ghi dấu đậm nét. Trong cuộc bút chiến gay gắt giữa hai luận điểm nghệ thuật, vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh, ông là người có những đóng góp xuất sắc đáng kể. Việc ông khởi xướng bảo vệ cho tiếng nói nghệ thuật là muốn tìm đến cái đích thực của sáng tạo. Có nghĩa Văn học phải là cái hay, cái đẹp đem đến lợi ích và mọi người thừa nhận. Cuối đời bút nghiệp của Lưu Trọng Lư tham gia nhiều thể loại sang tác: Kịch, Tiểu thuyết, Hồi ký, Tùy bút, Truyện ngắn…nhưng nhà thơ là ngọn đèn tỏa sáng.
Với tấm lòng Nhân vô hạn, bộc lộ rõ từng câu chữ, tạo ấn tượng trong lòng bạn đọc là tập thơ Tiếng Thu in năm 1940 tại Hà Nội và tái bản năm 1991, năm Nhà thơ qua đời.
Hiện nay, trong di cảo của Ông, còn nhiều bản thảo nghiên cứu có giá trị mà Sương phụ nhà thơ Tôn Nữ Lê Minh cùng các con lưu giữ lại được.
Bao nhiêu sách báo, bao nhiêu bài viết nghiên cứu về Thi sĩ họ Lưu còn chưa phai màu mực. Thời cùng sống, một lần Nhà văn Nguyễn Đình Thi- chủ tịch Hội liên hiệp VHNT Việt Nam đã có một nhận xét gọn mà đủ về Lưu Trọng Lư: “ Thơ Lưu Trọng Lư chân thật, hồn nhiên, dịu dàng nhiều bài mình thích”
Trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh- Nhà phê bình văn học tâm sự: “Mỗi lúc buồn đến, tôi lại trở về với Lưu Trọng Lư. Bởi vì thơ Lư nhiều bài thật không phải thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật mà chính tiếng lòng thổn thức cùng hòa trong tiếng thổn thức của lòng ta”.
Ngày 10-8-1991, Nhà thơ mất, nhiều vị lãnh đạo của các cơ quan Nhà nước và Chính phủ và đại văn nghệ sĩ của tỉnh đến viếng, dâng hương. Bên cạnh lời viếng của đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười và Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn có bài thơ của nhà thơ Tố Hữu, Nhà thơ cùng thời đã viếng Ông bài thơ tâm niệm:
Lưu Trọng Lư ơi biệt cõi trần
“Tiếng thu” man mác nhạc trong ngần
“Nửa Đêm Sực Tỉnh” đời pha mộng
Da diết lòng anh một chữ Nhân
Ngày được tin Nhà thơ quá cố, đại diện nhân dân Tỉnh Quảng Bình, Sở VHTT và Hội VHNT tỉnh đã long trọng tổ chức lễ truy điệu Nhà thơ. Giới Văn nghệ sĩ tỉnh nhà, mỗi Hội viên ngậm ngùi thắp nén hương tưởng niệm Ông, kính cẩn nghiềng mình bên chân dung Ông, thương tiếc một tài năng từ biệt cõi trần gian ở tuổi 80. Giới Văn học Nghệ thuật vinh dự đề nghị tỉnh lấy tên Ông đặt tên cho giải thưởng Văn học tỉnh nhà: “ Giải thưởng Văn học- Nghệ thuật Lưu Trọng Lư”, 5 năm trao giải một lần.
Năm 1995, lễ trao giải VHNT lần thứ I được tổ chức long trọng, năm 2000 lại tổ chức trao giải lần II và năm 2006 tổ chức trao lần III, thêm một lần nữa khẳng định tên tuổi Ông sẻ mãi mãi song hành cùng sự nghiệp văn học tỉnh Quảng Bình cũng như trong nền Văn học nghệ thuật cả nước.
Đến nay qua hơn 15 mùa thu có lẻ “ Lá thu rơi xào xạc”, Thi nhân đã trở về tọa lạc yên tỉnh trong ngôi nhà lưu niệm vĩnh hằng của đời mình nơi Quận 7- thành phố Hồ Chí Minh. Hẳn cùng từ đấy tháng ngày trong mùi trầm hương tỏa ngát, hồn thơ Ông lại tan hòa bay theo ngọn nồm hướng về nơi “ ch ôn rau cắt rốn”, mảnh đất từng chắp cánh cho một hồn Thơ. Nơi mảnh đất Hạ Trạch ấy có xây dựng một ngôi miếu đặt bàn thờ vọng của Ông để con cháu dòng họ Lưu hay du khách tham quan dự ngày “ Lễ hội rước thuyền Long Châu” đến viếng một hồn thơ phiêu lãng của quê hương xứ Hạ hoặc khi mỗi mùa thu đến ta lại lắng nghe đồng vọng đất trời “Tiếng thu” thầm thì mà thôi xao.
Năm 1995, lễ trao giải VHNT lần thứ I được tổ chức long trọng, năm 2000 lại tổ chức trao giải lần II và năm 2006 tổ chức trao lần III, thêm một lần nữa khẳng định tên tuổi Ông sẻ mãi mãi song hành cùng sự nghiệp văn học tỉnh Quảng Bình cũng như trong nền Văn học nghệ thuật cả nước.
Đến nay qua hơn 15 mùa thu có lẻ “ Lá thu rơi xào xạc”, Thi nhân đã trở về tọa lạc yên tỉnh trong ngôi nhà lưu niệm vĩnh hằng của đời mình nơi Quận 7- thành phố Hồ Chí Minh. Hẳn cùng từ đấy tháng ngày trong mùi trầm hương tỏa ngát, hồn thơ Ông lại tan hòa bay theo ngọn nồm hướng về nơi “ ch ôn rau cắt rốn”, mảnh đất từng chắp cánh cho một hồn Thơ. Nơi mảnh đất Hạ Trạch ấy có xây dựng một ngôi miếu đặt bàn thờ vọng của Ông để con cháu dòng họ Lưu hay du khách tham quan dự ngày “ Lễ hội rước thuyền Long Châu” đến viếng một hồn thơ phiêu lãng của quê hương xứ Hạ hoặc khi mỗi mùa thu đến ta lại lắng nghe đồng vọng đất trời “Tiếng thu” thầm thì mà thôi xao.
Hàn Mạc Tử (1912 – 1940)
Tổ tiên vốn họ Phạm, gốc ở Thanh Hoá. Ông cố tên là Phạm Chương, do có liên quan về quốc sự, gia đình bị truy nã nên người con là Phạm Bồi phải trốn vào Thừa Thiên rồi đổi họ Nguyễn và lập nghiệp tại làng Thanh Tân, huyện Phong Điền, cách Huế chừng 30 cây số về phía Bắc.
Ông Nguyễn Văn Toản, thân sinh Hàn Mặc Tử là con trưởng của cụ Phạm Bồi. Lúc sinh Hàn Mặc Tử ông Nguyễn Văn Toản đang làm Chủ sự Sở Thương Chánh Nhật Lệ - Đồng Hới. Lớn lên, Hàn Mặc Tử theo cụ thân sinh đi nhiều nơi và theo học ở các trường Tiểu học Sa Kỳ (1920), Quy Nhơn, Bồng Sơn (1921-1923), Sa Kỳ (1924)... đến năm 1926, cụ thân sinh của Hàn Mặc Tử bị bệnh và mất ở Huế, Hàn Mặc Tử được mẹ cho học tiếp ở trường Pellevin - Huế. Năm 1930, Hàn Mặc Tử mới thôi học theo mẹ vào Quy Nhơn.
Hàn Mặc Tử có tất cả 6 anh chị em, trong đó người anh cả tên là Nguyễn Bá Nhân, hiệu Mộng Châu là một nhà thơ Đường luật. Cũng chính nhờ người anh cả mà đường học vấn của Hàn Mặc Tử không bị dở dang sau khi cha anh qua đời và cũng chính người anh đã dìu dắt Hàn Mặc Tử bước vào làng thơ.
Năm 15 tuổi đã làm thơ và bắt đầu nổi tiếng trên thi đàn, Hàn Mặc Tử đã họa lại thơ của Mộng Châu. Lúc họa thơ, ký là Minh Duệ Thị, sau đổi là Phong Trần, rồi đổi là Lệ Thanh (Lệ là chữ đầu của sinh quán làng Lệ Mỹ - Đồng Hới, còn Thanh là chữ đầu của chánh quán Thanh Tân - Phong Điền - Huế). Sau đó lại đổi là Hàn Mạc Tử và cuối cùng mới lấy hiệu là Hàn Mặc Tử.
Từ năm 1934, Hàn Mặc Tử làm báo ở Sài Gòn. Năm 1936, Hàn Mặc Tử cho xuất bản tập ’’Gái quê’’ lừng danh và đây cũng chính là lúc anh phát hiện mình bị bệnh hủi. Một ’’fan’’ nữ mới 22 tuổi tên là Mai Đình do quá hâm mộ thi sĩ đã bỏ hết nhà cửa tự nguyện và Quy Nhơn chăm sóc cho Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử chết ở nhà thương Quy Hoà vào ngày 11-11-1940, khi ấy anh mới 28 tuổi.
Hàn Mặc Tử, một con người có tài văn thơ từ rất sớm. Có những bài thơ như ’’Cửa sổ đêm khuya’’ sáng tác lúc mới 17-18 tuổi; điều độc đáo của bài thơ này là có đến 6 cách đọc (đọc xuôi, đọc ngược, cắt bỏ hai chữ đầu, cắt bỏ hai chữ cuối). Cụ Phan Bội Châu cũng đã ca ngợi Hàn Mặc Tử và đã có lần họa thơ cùng. Cụ đã viết đại ý rằng: ’’Từ khi về nước đến nay, được xem nhiều thơ văn quốc âm song chưa được bài nào hay đến thế. Hồng nam nhạn bắc, ước ao có ngày gặp gỡ bắt tay cười to một tiếng cho thoả hồn thơ đó’’. Hàn Mặc Tử ra Huế thăm cụ Phan Bội Châu bị mật thám theo dõi và do thế bị gạch tên trong danh sách những người đi Pháp học. Rồi những cái tên như Mai Đình, Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc... những người con gái đã vô cùng hâm mộ Hàn Mặc Tử, đã từng đi qua hay ở lại trong đời, có những người nhà thơ chưa hề gặp mặt. Đặc biệt là cậu bé Hành, người đã bốn năm trời chăm sóc, đem cơm cho Hàn Mặc Tử trong thời gian anh sống chui, trốn lủi để không bị bắt đưa vào trại cùi trong núi.
Hàn Mặc Tử - mặc dù không phải là người Đồng Hới - Quảng Bình mà chỉ sinh ra đặt tên Thánh ở Nhà thờ Tam Toà và cũng chỉ sống ở Đồng Hới có 1/3 cuộc đời ngắn ngủi (9 năm); mặc dù nhà thơ không có một tác phẩm nào về Đồng Hới hay Quảng Bình nhưng khi đọc thơ Hàn Mặc Tử, người Đồng Hới hay người Quảng Bình, người ta vẫn tìm thấy trong đó chất quê, tình quê Quảng Bình toát lên từ mỗi câu thơ, và do đó coi Hàn Mặc Tử là người đồng hương của mình. Đó chính là việc dựa vào cách dùng thổ ngữ, tục ngữ hay thành ngữ địa phương trong thơ của Hàn Mặc Tử. Trong cuốn ’’Địa chí Đồng Hới’’, cụ Nguyễn Tú - Nhà Nghiên cứu văn hoá Quảng Bình đã tìm ra hàng chục bài thơ của Hàn Mặc Tử có sử dụng thổ ngữ địa phương. Có những từ ngữ địa phương khá thông dụng từ ngày xưa gần như các cụ già mới dùng đến, vậy mà ta vẫn thường gặp trong thơ Hàn Mặc Tử, đến nỗi có nhiều người nghĩ rằng nếu tác giả không phải là người Quảng Bình thì nhất định không biết sử dụng.
Hàn Mặc Tử - con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Thi nhân ra đi khi còn quá trẻ và sự nghiệp văn thơ cũng vừa mới bắt đầu. Tuy nhiên, dù chỉ có hơn 10 năm từ khi chập chững bước vào làng thơ cho đến khi rời xa cõi đời, Hàn Mặc Tử cũng đã kịp cho xuất bản hơn 10 tập thơ với hàng chục bài thơ đặc sắc; không chỉ có vậy, thi nhân để lại trong lòng hàng triệu người hâm mộ trên khắp mọi miền tình cảm mến thương và tiếc nuối khôn nguôi.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (25/08/1911 – 04/10/2013)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp |
Donald S.Marshall (Đô Nan S.Mắc San) kí giả người Mỹ viết: "Đại tướng Giáp, vị tướng 5 sao của quân đội Bắc Việt Nam kiêm Bộ trưởng Quốc phòng là vị tướng duy nhất được biết đến nhiều nhất trong các cuộc chiến tranh Đông Dương - Việt Nam. Ông Giáp (còn có tên là anh Văn) có một vị trí trong lịch sử thế giới qua việc lãnh đạo lực lượng Việt Minh đánh bại lực lượng Pháp ở Điện Biên Phủ..."
Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911, quê ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Thân sinh là cụ Võ Nguyên Thân, một nhà nho nghèo, yêu nước, dòng dõi khoa bảng, bất khuất và kiên cường. Lúc còn nhỏ, trước khi cắp sách đến trường làng, ông được cha dạy học chữ ở nhà. Ông là người thông minh và hiếu học. Đến năm 13 tuổi, ông được vào Huế theo học ở trường Quốc học; sau đó ông ra Hà Nội học ở khoa Luật, trường Đại học Tổng hợp. Ông đỗ bằng Cử nhân Luật và Kinh tế chính trị năm 1937.
Từ năm 1936-1939, phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương lên cao, ông là một trong những sáng lập viên của Mặt trận và là Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương đại hội. Ông cùng Trường Chinh là đồng tác giả cuốn sách "Vấn đề dân cày", trong đó nêu rõ quan điểm: ’’Vấn đề then chốt ở Đông Dương là trao ruộng đất cho dân cày’’.
Năm 1939, Võ Nguyên Giáp với bí danh là Dương Hoài Nam cùng với Phạm Văn Đồng lên Cao Bằng rồi vượt biên sang Trung Quốc gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, được sự dìu dắt của Người, ông vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1940. Tháng 5 năm 1941, trở về Cao Bằng, dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, ông cùng các cán bộ cao cấp khác xây dựng cơ sở cách mạng, lập ra Mặt trận Việt Minh, mở lớp huấn luyện quân sự cho Việt Minh ở Cao Bằng.
Năm 1942, ông phụ trách ban "Xung phong Nam tiến’’. Tháng 12-1944, ông được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trao nhiệm vụ thành lập đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân. Ngày 22-12-1944, tại một khu rừng ở Châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ủy nhiệm ông đứng ra tuyên bố thành lập đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân (tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay) với 34 người, được trang bị 2 súng thập (một loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng kíp và 1 súng máy, ông được giao trực tiếp lãnh đạo và chỉ huy. Cuối tháng 3-1945, ông đưa đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân tiến xuống phía Nam, hội quân với đội Cứu Quốc quân của Chu Văn Tấn ở vùng chợ Chu, Thái Nguyên để thống nhất tổ chức thành Việt Nam Giải Phóng Quân.
Tháng 8-1945, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, làm tổng chỉ huy các đội Việt Nam Giải Phóng Quân và Ủy viên Ban chỉ huy lâm thời khu Giải phóng Việt Bắc. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ II (1945) bầu ông vào Ban chấp hành Trung ương và làm Ủy viên Thường vụ Trung ương. Ông tham gia Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc, Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam, làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Phó Bộ trưởng (nay gọi là Thứ trưởng) Bộ Quốc phòng trong Chính phủ lâm thời (từ ngày 28 tháng 8 đến hết năm 1945) và là Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ. Trong Chính phủ Liên hiệp thành lập ngày 3 tháng 11 năm 1946, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (cho đến tháng 7 năm 1947 và từ tháng 7 năm 1948 trở đi). Cũng trong năm 1946, ông lập gia đình với bà Đặng Bích Hà (con gái giáo sư Đặng Thai Mai).
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh Đông Dương chính thức bùng nổ. Dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản, ông bắt đầu lãnh đạo cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) với cương vị Tổng chỉ huy và Tổng Chính ủy, từ năm 1949 đổi tên gọi là Tổng tư lệnh Quân đội kiêm Bí thư Tổng Quân uỷ. Ngày 25 tháng 1 năm 1948, ông được phong Đại tướng theo Sắc lệnh 110/SL ký ngày 20 tháng 1 năm 1948. Tháng 8 năm 1948, ông là Ủy viên Hội đồng Quốc phòng Tối cao vừa mới được thành lập.
Tháng 6-1950, theo Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Đảng chấn chỉnh tổ chức thành Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh, ông giữ chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng kiêm Tổng Tư lệnh, Tổng Chính ủy Bí thư Quân ủy Trung ương. Ông liên tục đảm nhiệm những chức vụ trên trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1945-1975).
Trong 21 năm (1954-1975) của cuộc Chiến tranh Việt Nam, ông thực hiện nhiệm vụ xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam, tham gia xây dựng chiến lược chiến tranh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trực tiếp tổ chức và chỉ đạo các hoạt động của Quân đội Nhân dân trong chiến tranh. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều hoạt động Đảng cộng sản và Nhà nước khác.
Trong một thời gian ngắn từ tháng 7 năm 1960 đến tháng 1 năm 1963, ông kiêm thêm chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước.
Năm 1980, ông thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhưng vẫn tiếp tục là Ủy viên Bộ Chính trị (đến năm 1982) và Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học - Kỹ thuật. Người thay thế ông ở Bộ Quốc phòng là Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội, một trong những cộng sự lâu năm nhất của ông.
Năm 1991, ông nghỉ hưu ở tuổi 80. Ông đã được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng (1992), 2 Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến thắng hạng nhất.
Là một người có tài tổ chức, Võ Nguyên Giáp đã từng bước xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam từ 34 người vào tháng 12 năm 1944 thành một đội quân với hơn một triệu người năm 1975. Là một nhà chiến lược - chiến thuật bậc thầy, ông đã từng bước lãnh đạo quân đội và nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Tên tuổi của Võ Nguyên Giáp gắn liền với chiến thắng có ý nghĩa quốc tế của Quân đội Nhân dân Việt Nam - chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử. Với hơn 50 năm tham gia hoạt động chính trị ở cấp cao nhất, trong đó có 30 năm là Tổng Tư lệnh Quân đội, ông có uy tín lớn trong Đảng Cộng sản Việt Nam, trong quân đội và trong nhân dân, được coi là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và là Người anh cả của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Uy tín của Đại tướng tỏa rộng trong nước và ngoài nước.
Kí giả Peter MacDonald (Pitơ Mắc- đô- nan) người Anh viết: "1944 đến 1975, cuộc đời của ông Giáp gắn liền với chiến đấu và chiến thắng, đã làm ông trở thành một trong những Thống soái lớn của các thời đại. Với 30 năm làm Tổng Tư lệnh và 50 năm tham gia chính sự ở cấp cao nhất, ông đã tỏ ra là người có phẩm chất phi thường trong mọi lĩnh vực của chiến tranh; khó có vị tướng soái nào có thể so sánh với ông trong việc kết hợp giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy ở trình độ cao. Sự kết hợp đó xưa nay chưa từng có".
Kí giả G.Bonnet (G Bonnê) người Pháp viết vào Từ điển bách khoa toàn thư Pháp: "Là người tổ chức Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông Võ Nguyên Giáp đã thực hiện được một sự tổng hợp độc đáo các học thuyết quân sự Mác xít kết hợp nhuần nhuyễn với truyền thống kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc, vận dụng khôn khéo vào những điều kiện của một quốc gia có đất đai tương đối hẹp"
Một cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi
Mười bốn tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng (1925). Năm 1929, ông tham gia cải tổ Tân Việt Cách Mạng Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Năm 1930, ông bị thực dân Pháp bắt giữ và bị giam ở nhà lao Thừa phủ (Huế) vì tham gia các cuộc biểu tình chống Pháp. Cuối năm 1931, nhờ sự can thiệp của Hội Cứu tế đỏ của Pháp, Võ Nguyên Giáp được thả tự do. Ông hoạt động đấu tranh cách mạng trên mặt trận văn hóa, viết bài cho những tờ báo công khai hồi đó như Tin Tức, Nhân Dân, Tiếng nói của chúng ta, Lao động; làm biên tập viên cho các báo của Đảng; dạy Sử - Địa ở trường tư thục Thăng Long. Năm 1934, ông kết hôn với bà Nguyễn Thị Quang Thái, bạn học tại trường Quốc học Huế, một Đảng viên Cộng sản, cộng tác đắc lực của ông. Trong những năm hoạt động bí mật ở Hà Nội, hai ông bà đã từng chung sống ở căn nhà số 46 phố Nam Ngư. Năm 1943, bà Thái chết trong nhà giam Hỏa Lò, Hà Nội.Từ năm 1936-1939, phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương lên cao, ông là một trong những sáng lập viên của Mặt trận và là Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương đại hội. Ông cùng Trường Chinh là đồng tác giả cuốn sách "Vấn đề dân cày", trong đó nêu rõ quan điểm: ’’Vấn đề then chốt ở Đông Dương là trao ruộng đất cho dân cày’’.
Năm 1939, Võ Nguyên Giáp với bí danh là Dương Hoài Nam cùng với Phạm Văn Đồng lên Cao Bằng rồi vượt biên sang Trung Quốc gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, được sự dìu dắt của Người, ông vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1940. Tháng 5 năm 1941, trở về Cao Bằng, dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, ông cùng các cán bộ cao cấp khác xây dựng cơ sở cách mạng, lập ra Mặt trận Việt Minh, mở lớp huấn luyện quân sự cho Việt Minh ở Cao Bằng.
Năm 1942, ông phụ trách ban "Xung phong Nam tiến’’. Tháng 12-1944, ông được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trao nhiệm vụ thành lập đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân. Ngày 22-12-1944, tại một khu rừng ở Châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ủy nhiệm ông đứng ra tuyên bố thành lập đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân (tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay) với 34 người, được trang bị 2 súng thập (một loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng kíp và 1 súng máy, ông được giao trực tiếp lãnh đạo và chỉ huy. Cuối tháng 3-1945, ông đưa đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân tiến xuống phía Nam, hội quân với đội Cứu Quốc quân của Chu Văn Tấn ở vùng chợ Chu, Thái Nguyên để thống nhất tổ chức thành Việt Nam Giải Phóng Quân.
Tháng 8-1945, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, làm tổng chỉ huy các đội Việt Nam Giải Phóng Quân và Ủy viên Ban chỉ huy lâm thời khu Giải phóng Việt Bắc. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ II (1945) bầu ông vào Ban chấp hành Trung ương và làm Ủy viên Thường vụ Trung ương. Ông tham gia Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc, Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam, làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Phó Bộ trưởng (nay gọi là Thứ trưởng) Bộ Quốc phòng trong Chính phủ lâm thời (từ ngày 28 tháng 8 đến hết năm 1945) và là Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ. Trong Chính phủ Liên hiệp thành lập ngày 3 tháng 11 năm 1946, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (cho đến tháng 7 năm 1947 và từ tháng 7 năm 1948 trở đi). Cũng trong năm 1946, ông lập gia đình với bà Đặng Bích Hà (con gái giáo sư Đặng Thai Mai).
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh Đông Dương chính thức bùng nổ. Dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản, ông bắt đầu lãnh đạo cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) với cương vị Tổng chỉ huy và Tổng Chính ủy, từ năm 1949 đổi tên gọi là Tổng tư lệnh Quân đội kiêm Bí thư Tổng Quân uỷ. Ngày 25 tháng 1 năm 1948, ông được phong Đại tướng theo Sắc lệnh 110/SL ký ngày 20 tháng 1 năm 1948. Tháng 8 năm 1948, ông là Ủy viên Hội đồng Quốc phòng Tối cao vừa mới được thành lập.
Tháng 6-1950, theo Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Đảng chấn chỉnh tổ chức thành Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh, ông giữ chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng kiêm Tổng Tư lệnh, Tổng Chính ủy Bí thư Quân ủy Trung ương. Ông liên tục đảm nhiệm những chức vụ trên trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1945-1975).
Trong 21 năm (1954-1975) của cuộc Chiến tranh Việt Nam, ông thực hiện nhiệm vụ xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam, tham gia xây dựng chiến lược chiến tranh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trực tiếp tổ chức và chỉ đạo các hoạt động của Quân đội Nhân dân trong chiến tranh. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều hoạt động Đảng cộng sản và Nhà nước khác.
Trong một thời gian ngắn từ tháng 7 năm 1960 đến tháng 1 năm 1963, ông kiêm thêm chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước.
Năm 1980, ông thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhưng vẫn tiếp tục là Ủy viên Bộ Chính trị (đến năm 1982) và Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học - Kỹ thuật. Người thay thế ông ở Bộ Quốc phòng là Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội, một trong những cộng sự lâu năm nhất của ông.
Năm 1991, ông nghỉ hưu ở tuổi 80. Ông đã được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng (1992), 2 Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến thắng hạng nhất.
Là một người có tài tổ chức, Võ Nguyên Giáp đã từng bước xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam từ 34 người vào tháng 12 năm 1944 thành một đội quân với hơn một triệu người năm 1975. Là một nhà chiến lược - chiến thuật bậc thầy, ông đã từng bước lãnh đạo quân đội và nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Tên tuổi của Võ Nguyên Giáp gắn liền với chiến thắng có ý nghĩa quốc tế của Quân đội Nhân dân Việt Nam - chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử. Với hơn 50 năm tham gia hoạt động chính trị ở cấp cao nhất, trong đó có 30 năm là Tổng Tư lệnh Quân đội, ông có uy tín lớn trong Đảng Cộng sản Việt Nam, trong quân đội và trong nhân dân, được coi là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và là Người anh cả của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Uy tín của Đại tướng tỏa rộng trong nước và ngoài nước.
Kí giả Peter MacDonald (Pitơ Mắc- đô- nan) người Anh viết: "1944 đến 1975, cuộc đời của ông Giáp gắn liền với chiến đấu và chiến thắng, đã làm ông trở thành một trong những Thống soái lớn của các thời đại. Với 30 năm làm Tổng Tư lệnh và 50 năm tham gia chính sự ở cấp cao nhất, ông đã tỏ ra là người có phẩm chất phi thường trong mọi lĩnh vực của chiến tranh; khó có vị tướng soái nào có thể so sánh với ông trong việc kết hợp giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy ở trình độ cao. Sự kết hợp đó xưa nay chưa từng có".
Kí giả G.Bonnet (G Bonnê) người Pháp viết vào Từ điển bách khoa toàn thư Pháp: "Là người tổ chức Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông Võ Nguyên Giáp đã thực hiện được một sự tổng hợp độc đáo các học thuyết quân sự Mác xít kết hợp nhuần nhuyễn với truyền thống kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc, vận dụng khôn khéo vào những điều kiện của một quốc gia có đất đai tương đối hẹp"
Quách Xuân Kỳ (1926- 1949)
Quách Xuân Kỳ là người rất thông minh, cương trực, giàu lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc và cương quyết dấn thân vào con đường cách mạng khi đang ở vào tuổi thanh xuân.
Quách Xuân Kỳ sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước tại xã Trung Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Cha là cụ Quách Nguyên Hàm, một danh y nổi tiếng trong vùng, lấy việc trị bệnh cứu người làm nguồn vui sống. Quách Xuân Kỳ là người con thứ 5 trong gia đình, tham gia hoạt động Việt Minh ngay từ lúc còn trẻ, là người ham mê văn chương.
Năm 1944 tham gia hoạt động trong mặt trận Việt Minh của huyện. Khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 bùng nổ, anh tham gia vào Uỷ ban khởi nghĩa huyện Bố Trạch, trở thành một trong những hạt nhân lãnh đạo của chính quyền mới ở quê hương sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công. Năm 1947, thực dân Pháp đánh chiếm Quảng Bình, Quách Xuân Kỳ trúng cử huyện Uỷ viên và đến năm 1948, anh được bầu vào Ban Thường vụ và làm Bí thư huyện ủy Bố Trạch. Với trách nhiệm lãnh đạo một huyện kháng chiến, anh đã cùng với Đảng bộ huyện xây dựng lực lượng, anh dũng chiến đấu giáng cho địch những đòn chí tử. Bố Trạch trở thành huyện lừng danh trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược với những làng chiến đấu anh dũng, kiên cường như Cự Nẫm. Đầu năm 1949, Quách Xuân Kỳ trở thành Tỉnh Ủy viên kiêm Bí thư Thị ủy Đồng Hới. Những hành động dũng cảm, gan dạ của Quách Xuân Kỳ đã làm cho quân địch hoang mang lo sợ, chúng đã dốc toàn lực để truy bắt anh. Năm 1949, Quách Xuân Kỳ bị địch bắt trong một đợt càn quét dài ngày, chúng giam ở nhà lao Đồng Hới và hành hạ suốt hai tháng trời. Ở trong tù thực dân Pháp tiến hành tra tấn, dụ dỗ, mua chuộc song tất cả những thủ đoạn của giặc Pháp đều thất bại trước ý chí kiên cường của anh. Cuối cùng quân địch quyết định đem anh ra xử bắn tại Hoàn Lão ngày 11-7-1949,ở độ tuổi 23 thanh xuân rực lửa anh hùng, sự hi sinh của anh đã trở thành sự bất tử trong lòng người dân Quảng Bình và cả nước. Cả cuộc đời thanh xuân của Quách Xuân Kỳ đã hiến dâng cho đất mẹ Quảng Bình, cho Tổ quốc, cho lý tưởng cộng sản, gương chiến đấu, phí phách anh hùng của anh sáng mãi đến muôn đời sau. Mẹ Suốt - người mẹ anh hùng
Nguyễn Thị Suốt (1906 - 1968), được gọi với tên thân mật là Mẹ Suốt là một nữ anh hùng lao động trong Chiến tranh Việt Nam, người đã lái đò chở bộ đội, thương binh, đạn dược qua con sông Nhật Lệ trong những năm 1964 - 1967.
Mẹ sinh năm 1906 tại thôn Mỹ Cảnh, xã Bảo Ninh, thị xã Đồng Hới, Quảng Bình, trong một gia đình ngư dân nghèo, thuở nhỏ đã phải đi ở suốt 18 năm. Sau Cách mạng tháng 8, Mẹ mới lấy chồng, làm nghề chèo đò kiếm sống.
Năm 1964, sau Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, Mỹ bắt đầu đem quân đánh phá miền Bắc. Miền đất Quảng Bình là một trong những trọng điểm đánh phá của máy bay và hải quân Mỹ, với mục đích nhằm ngăn chặn việc chi viện của miền Bắc cho lực lượng cách mạng miền Nam. Lúc đó, mẹ đã 60 tuổi nhưng vẫn xung phong nhận công việc chèo đò chở cán bộ, thương binh và vũ khí qua sông, giữ vững thông tin liên lạc giữa hai bờ. Kể từ đó, trong suốt những năm 1964 - 1966, mẹ vẫn giữ vững nhiệm vụ của mình, đã chèo hàng trăm lượt ngay cả những lúc máy bay Mỹ ném bom oanh tạc ác liệt. Mẹ được những người cán bộ và bà con gọi với tên quen thuộc Mẹ Suốt. Tổng cộng ước tính mỗi năm mẹ Suốt qua lại đến 1400 chuyến. Trong Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn quốc năm 1966 tổ chức ở miền Bắc, mẹ Suốt được mời tham dự. Ngày 1 tháng 1 năm 1967, mẹ được phong tặng danh hiệu Anh hùng ngành Giao thông vận tải trong chống Mỹ cứu nước. Cuối năm 1968, khi chiến tranh trở nên ác liệt hơn, mẹ ngừng công việc chèo đò, di chuyển lên vùng cao hơn. Ngày 11 tháng 10 năm 1968, trong một lần đi ở bến đò Bảo Ninh mẹ Nguyễn Thị Suốt hy sinh trong một trận bom bi oanh tạc Mỹ. Mẹ Suốt đã góp phần xứng đáng của mình trong chiến công chung của quân dân Quảng Bình. Hình ảnh mẹ sống mãi trong lòng nhân dân Quảng Bình và nhân dân cả nước. Mẹ là biểu tượng của Chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là tấm gương tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam anh hùng. Chiến công của mẹ gắn liền với bến đò ngang thuộc địa phận thôn Trung Bính, xã Bảo Ninh qua Hải Đình, Đồng Hới. Cái tên "Bến đò Mẹ Suốt" rất đỗi thân thương, gần gũi, rất đỗi tự hào. Ngày nay tượng đài Mẹ Suốt đã được dựng lên trong công viên tả ngạn bờ sông Nhật Lệ phường Hải Đình - Đồng Hới. Đây là địa chỉ tham quan du lịch, nơi sinh hoạt văn hóa của nhân dân thành phố và du khách gần xa khi đến với Quảng Bình bày tỏ lòng ngưỡng mộ, cảm kích trước một bà mẹ bình thường nhưng rất đỗi anh hùng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ nổi tiếng mang tên Mẹ Suốt
"Một tay lái chiếc đò ngang
Bến sông Nhật Lệ, quân sang đêm ngày
Sợ chi sóng gió tàu bay
Tây kia mình đã thắng, Mỹ này ta chẳng thua!
Kể chi tuổi tác già nua
Chống chèo xin cứ thi đua đến cùng!
Ngẩng đầu, mái tóc mẹ rung
Gió lay như sóng biển tung, trắng bờ...
Gan chi gan rứa, mẹ nờ?
Mẹ rằng: Cứu nước mình chờ chi ai?
Chẳng bằng con gái, con trai
Sáu mươi còn một chút tài đò đưa
Tàu bay hắn bắn sớm trưa
Thì tui cứ việc sớm trưa đưa đò
|