Ngay
ngã tư Quốc lộ 9 cắt đường Hồ Chí Minh tại địa phận huyện Cam Lộ, có một tấm biển
chỉ dẫn đền thờ Huyền Trân Công Chúa tại xóm Chùa, thôn Kim Đâu, xã Cam An, huyện
Cam Lộ.
Ngôi
miếu thờ toạ lạc ở phía Nam xóm Chùa, bên bờ một bàu nước có tên là Bàu Đá thuộc
làng Kim Đâu, xã Cam An, huyện Cam Lộ; cách trụ sở UBND xã gần 1km về phía Đông
bắc.
Ngôi
miếu xưa được dựng từ rất sớm với lối kiến trúc xây gạch theo kiểu vòm cuốn. Bộ
mái đắp bằng vôi vữa được tạo thành 3 tầng, kiểu mái cong, các đầu đao vút lên,
lợp ngói liệt, có đường cổ diêm giả. Đây là kiểu đền miếu mang phong cách thời
Lê (thế kỷ XVI - XVII). Qua thời gian, ngôi miếu này bị hư hỏng nặng cho nên
từ năm 1998, nhân dân đã dựng lại ngôi miếu mới hoàn toàn theo kiểu kiến trúc
chữ “Nhị” với hai nhà ghép song ngang, trước có đường cổ diêm và mái ngói giả.
Đường
cổ diêm của tiền đường được đắp nổi 3 chữ Hán: Chúa/chủ Ngọc Miếu, phía dưới có
2 câu đối:
Tái tạo miếu đường y cựu chỉ
Kinh doanh cải cách dụng tân cơ.
(Tái tạo miếu đường như nét cũ
Cải cách sửa đổi dùng nền xưa).
Chúa Ngọc anh linh thường giáng trần
Bà Phi hiển hách hộ tài dân
Bên
trong hậu điện là án thờ có chữ "Linh" viết trên tường và bài vị mới
được làm lại ghi hàng chữ Hán: "Quang Minh Linh Diệu Thanh Ôn Ngọc Bà, Dực
Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần".
Chúa Ngọc là tên gọi được người
Việt tôn xưng từ một vị nữ thần của người Chăm: thần mẹ xứ sở - Mẫu đất - Po
yan Ynư Nagar. Những làng xã nông nghiệp ở miền Trung nói chung, Quảng Trị nói
riêng đa số đều có miếu thờ vị nữ thần này với cái tên gọi miếu bà chúa Ngọc,
hay đúng hơn là miếu thờ bà Thiên Y ana Ngọc diễn phi. Những ngôi miếu này thường
được người Việt dựng lên bên trên các phế tích đền tháp Chăm, những dấu tích
liên quan đến văn hóa Chăm hoặc những khu vực được coi là linh thiêng của các
làng. Phần lớn những ngôi miếu được gọi tên là Miếu Bà/ Chủ Ngọc miếu. Ở những
nơi có phế tích đền tháp hoặc có những dấu tích văn hóa Chăm được gọi tên là
lùm giàng, lòi giàng, cồn giàng...nên miếu thờ cũng gọi là miếu Bà Giàng; các
nơi khác thì gọi là miếu bà chúa hay miếu bà chúa Ngọc. Những ngôi miếu cổ thường
được xây dựng theo 2 lối kiến trúc: hoặc là theo kiểu một ngôi nhà rường gác lững
có bộ khung gỗ 4 cột theo kiểu nhà sàn; hoặc là được xây bằng gạch, vôi với bộ
mái cong như kiểu các đình chùa miền Bắc, có sử dụng nghệ thuật đắp vữa và ghép
mảnh sành sứ. Miếu bà Chúa Ngọc ở Kim Đâu là một trong số những ngôi miếu như vậy.
Bà Chúa Ngọc tồn tại
trong không gian thờ cúng của người Việt Quảng Trị dường như ở khắp mọi làng
xóm. Hàng năm vào các dịp tế làng, lể hội kỳ yên, bà Chúa Ngọc thuộc một trong
những vị thần được nghinh rước về tế tại đình làng. Thần hiệu của Bà theo các sắc
phong dưới thời Nguyễn có nơi đề là Thiên Y Ana Diễn Bà Chúa Ngọc Thánh Phi thượng
đẳng thần, nhưng có nơi lại xưng là Hồng Nhân Phổ Tế Linh Ứng thượng đẳng thần.
Nhiều vùng quê Quảng Trị vẫn coi Bà Chúa Ngọc chính là Công Chúa Huyền Trân và
nhiều nhà nghiên cứu cũng đã nhầm lẫn các CHỦ NGỌC MIẾU là những miếu thờ Công
chúa Huyền Trân - một nhân vật lịch sử có thật dưới thời nhà Trần đã nhận lời
bán gả của hai triều đại, đem tấm thân ngọc ngà của mình đổi lấy món quà sính lễ
cho dân tộc bằng hai châu: Ô - Rí vào năm 1306. Công lao của bà Huyền Trân đáng
để dân Quảng Trị và cả Thừa Thiên ngưỡng vọng và tôn bà thành thánh; nhưng việc
đồng nhất Bà Chúa Ngọc với Công Chúa Huyền Trân là cả một thái độ trân trọng
đáng kính của người Quảng Trị đối với các vị thần Chăm. Đó là sự thể hiện tính
cộng tồn văn hóa thông qua cách vừa diễn âm vừa chuyển nghĩa, cũng như khát vọng
muốn thay thế một vị thần Chăm bằng một vị nhân thần Việt.
Trong cảm quan huyền thoại
của người Chăm thì Po Yan Inư Nagar (thường gọi là Po Nagar) là thần Mẹ xứ sở,
Thánh Mẫu tạo dựng nên vương quốc, đã giáng sinh giữa mây trời và bọt biển. Bà
có 97 chồng, sinh được 38 người con. Chính Thánh Mẫu Po Naga đã tạo ra quả đất,
cây trầm hương và lúa gạo. Bà còn đem lại sự dồi dào và thuận lợi cho mùa màng.
Người Chăm cho rằng Po Yan Inư Nagar chính là nữ thần Uma, vợ hay thần nữ của
thần Siva, còn có tên là thần Bhagavati.
Chúng
ta không thể kể hết uy thế bao trùm của vị thần Chăm này đối với dân đồng bằng
miền Trung trên phần đất Đàng Trong cũ, nhưng từ khi chuyển thành Mẫu đất của
người Việt, tĩnh tọa trong không gian gian thờ cúng của người Việt thì vai trò
của Po Naga không khác gì Mẫu Liễu Hạnh với một tên gọi mang âm ngữ Hán - Việt:
Thiên Y Ana Ngọc Diễn Phi. Gọi theo cách dân gian là Bà Chúa Ngọc. Đối với người
Việt toàn miền Trung, hai trung tâm lớn nhất của Bà là Điện Hòn Chén (Huế) và
Tháp Bà (Nha Trang) mang sự tích thành văn, còn rải rác trên các làng quê theo
sự lan tỏa quyền lực bảo trợ của Bà mà thay thế những thần Chăm khác đã bị lãng
quên hoặc co rút lại.
Miếu
Bà Chúa Ngọc - Thiên YaNa Diễn Ngọc Phi là một tín ngưỡng thờ cúng Mẫu đất mang
đậm dấu ấn về mối giao lưu văn hóa trong quan hệ 2 dân tộc Chăm - Việt từ lâu
trong lịch sử và đang sống mãi với thời gian. Đó là sản phẩm văn hoá tinh
thần làng xã mang đậm ý thức tôn vinh, ngưỡng vọng nhằm thỏa mãn ước nguyện
vươn tới hạnh phúc và ấm no.