Lăng Minh Mạng hay Hiếu Lăng thuộc địa
phận núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế, gần ngã
ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch tạo thành sông Hương chảy
qua Tp. Huế. Lăng cách Tp. Huế 12km.
Lăng Minh Mạng là một tổng thể kiến trúc quy mô gồm khoảng 40 công trình lớn nhỏ. Lăng Minh Mạng toát lên vẻ đường bệ, uy nghiêm nhưng rất hài hòa giữa các công trình kiến trúc và thiên nhiên.
Tháng 4/1840, vua Minh Mạng đổi tên núi Cẩm Kê thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu Lăng. Lăng được khởi công xây dựng vào tháng 9/1840.
Ðến tháng 1/1841 công trình đang xúc tiến thì Minh Mạng lâm bệnh mất, vua Thiệu Trị lên nối ngôi và tiếp tục cho xây dựng lăng theo đúng thiết kế cũ. Tháng 8/1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành. Ðến năm 1843 thì việc xây lăng mới hoàn tất.
Lăng Minh Mạng là một tổng thể kiến trúc qui mô gồm khoảng 40 công trình lớn nhỏ gồm Cung điện, Lâu đài, Đình tạ... được bố trí cân đối trên một trục dọc từ Ðại Hồng Môn (ở ngoài cùng) tới chân tường của La Thành sau mộ vua.
Lăng Minh Mạng là một tổng thể kiến trúc quy mô gồm khoảng 40 công trình lớn nhỏ. Lăng Minh Mạng toát lên vẻ đường bệ, uy nghiêm nhưng rất hài hòa giữa các công trình kiến trúc và thiên nhiên.
Tháng 4/1840, vua Minh Mạng đổi tên núi Cẩm Kê thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu Lăng. Lăng được khởi công xây dựng vào tháng 9/1840.
Ðến tháng 1/1841 công trình đang xúc tiến thì Minh Mạng lâm bệnh mất, vua Thiệu Trị lên nối ngôi và tiếp tục cho xây dựng lăng theo đúng thiết kế cũ. Tháng 8/1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành. Ðến năm 1843 thì việc xây lăng mới hoàn tất.
Lăng Minh Mạng là một tổng thể kiến trúc qui mô gồm khoảng 40 công trình lớn nhỏ gồm Cung điện, Lâu đài, Đình tạ... được bố trí cân đối trên một trục dọc từ Ðại Hồng Môn (ở ngoài cùng) tới chân tường của La Thành sau mộ vua.
-
Tiểu sử vua Minh Mạng
Minh Mạng tên huý là Nguyễn Phúc Ðảm, sinh ngày 23 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789), là con thứ của Gia Long. Tháng giêng năm Canh Thìn (1820),Thái tử Ðảm lên ngôi Vua, niên hiệu là Minh Mạng.
Minh Mạng có tư chất thông minh, hiếu học, năng động và quyết đoán. Minh Mạng đặt ra lệ: các quan ai được thăng điện, bổ nhiệm...đều phải đến kinh đô gặp Vua, để Vua hỏi han công việc, kiểm tra năng lực và khuyên bảo...
Là người tinh thâm nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mạng rất quan tâm đến học hành, khoa cử, tuyển chọn nhân tài, năm 1821 cho dựng Quốc Tử Giám, đặt chức Tế Tửu và Tư Nghiệp, mở lại thi Hội và thi Ðình, trước 6 năm một khoa thi, nay rút xuống 3 năm.
Minh Mạng cũng rất quan tâm đến võ bị, nhất là thuỷ quân, nên đã sai người tìm hiểu cách đóng tàu của châu Âu và ước vọng làm sao cho người Việt đóng được tàu kiểu Tây Âu và biết lái tàu vượt đại dương.
Minh Mạng đã hoàn chỉnh hệ thống đê điều ở Bắc Bộ, đặt quan khuyến nông, khai hoang ven biển Bắc Bộ lập thêm hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải.
Về đối ngoại, Minh Mạng đặc biệt chú ý thần phục nhà Thanh, nhưng lại lạnh nhạt và nghi kỵ đối với các nước phương Tây do vậy đã kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Minh Mạng có rất nhiều vợ nên đã có 78 hoàng tử và 64 công chúa, tổng cộng 142 người con.
Tháng 12 năm 1840, Minh Mạng ốm nặng rồi mất, trị vì được 20 năm, thọ 50 tuổi.
Minh Mạng tên huý là Nguyễn Phúc Ðảm, sinh ngày 23 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789), là con thứ của Gia Long. Tháng giêng năm Canh Thìn (1820),Thái tử Ðảm lên ngôi Vua, niên hiệu là Minh Mạng.
Minh Mạng có tư chất thông minh, hiếu học, năng động và quyết đoán. Minh Mạng đặt ra lệ: các quan ai được thăng điện, bổ nhiệm...đều phải đến kinh đô gặp Vua, để Vua hỏi han công việc, kiểm tra năng lực và khuyên bảo...
Là người tinh thâm nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mạng rất quan tâm đến học hành, khoa cử, tuyển chọn nhân tài, năm 1821 cho dựng Quốc Tử Giám, đặt chức Tế Tửu và Tư Nghiệp, mở lại thi Hội và thi Ðình, trước 6 năm một khoa thi, nay rút xuống 3 năm.
Minh Mạng cũng rất quan tâm đến võ bị, nhất là thuỷ quân, nên đã sai người tìm hiểu cách đóng tàu của châu Âu và ước vọng làm sao cho người Việt đóng được tàu kiểu Tây Âu và biết lái tàu vượt đại dương.
Minh Mạng đã hoàn chỉnh hệ thống đê điều ở Bắc Bộ, đặt quan khuyến nông, khai hoang ven biển Bắc Bộ lập thêm hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải.
Về đối ngoại, Minh Mạng đặc biệt chú ý thần phục nhà Thanh, nhưng lại lạnh nhạt và nghi kỵ đối với các nước phương Tây do vậy đã kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Minh Mạng có rất nhiều vợ nên đã có 78 hoàng tử và 64 công chúa, tổng cộng 142 người con.
Tháng 12 năm 1840, Minh Mạng ốm nặng rồi mất, trị vì được 20 năm, thọ 50 tuổi.
-
Bố
cục kiến trúc lăng
Lăng
Minh Mạng có bố cục kiến trúc cân bằng đối xứng, xung quanh một trục kiến trúc
là đường thần đạo, xuyên qua một loạt các hạng mục công trình gồm: cửa chính,
sân chầu, nhà bia, sân tế, Hiển Đức môn, điện Sùng Ân, hồ Trừng Minh, Minh Lâu,
hồ Tân Nguyệt, cổng tam quan Quang Minh Chính Trực, cầu Trung Đạo và cuối cùng
là Bửu thành.
Lăng
có diện tích 18 ha nhưng diện tích cấm địa quanh lăng là 475 ha, xung quanh
lăng có La thành bao bọc. Cửa chính của lăng tên là Đại Hồng Môn, là cửa chỉ để
rước linh cữu của vua nhập lăng.
Hai
bên cửa chính là hai cửa Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn. Hồ Trừng Minh gồm hai nửa
nối thông với nhau ở phía sau điện Sùng Ân nơi có ba cây cầu đá bắc qua, giống
như hai lá "phổi xanh", bao bọc lấy điện Sùng Ân và các kiến trúc
vòng ngoài nằm trên trục thần đạo (khu vực tưởng niệm).
Ở
giữa hai hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt, trên đường thần đạo, là Minh Lâu. Hồ Tân
Nguyệt hình vầng trăng non ôm lấy một phần khu mộ vua.
Bửu
thành là một quả đồi thông hình tròn, bao quanh bởi tường thành, bên trong, sâu
bên dưới là mộ vua. Ở chính giữa hồ Tân Nguyệt có một cây cầu mang tên Trung Đạo
kiều, nối Minh Lâu với Bửu thành và đường dạo quanh lăng. Phía sau Bửu thành là
rừng thông xanh thẳm, đem lại một cảm giác u tịch.
Trên
mặt cắt kiến trúc dọc theo đường thần đạo, các công trình cao thấp theo một nhịp
điệu vần luật nhất quán, âm dương xen kẽ, tạo nên nét đẹp riêng cho công trình
kiến trúc lăng tẩm này.
Bố
cục kiến trúc đăng đối của các hạng mục chính trong lăng đem lại cho lăng một vẻ
uy nghiêm cần có của công trình lăng mộ. Tuy vậy, ở ngoài rìa, men theo con đường
dạo quanh co vòng quanh hai hồ nước và viền xung quanh lăng, xen lẫn với cây cối
có các công trình kiến trúc nhỏ dùng để nghỉ chân ngắm cảnh như: đình Điếu Ngư,
gác Nghênh Phong, hiên Tuần Lộc, sở Quan Lan, Tạ Hư Hoài ... làm cho toàn bộ quần
thể lăng uy nghiêm nhưng vẫn hài hòa với thiên nhiên và duyên dáng tráng lệ.
Trong
khoảng diện tích được giới hạn bởi vòng La thành dài 1.750m là một quần thể kiến
trúc gồm cung điện, lâu đài, đình tạ được bố trí đăng đối trên một trục dọc
theo đường Thần đạo dài 700 m, bắt đầu từ Đại Hồng Môn đến chân La thành sau mộ
vua. Hình thể lăng tựa dáng một người nằm nghỉ trong tư thế thoải mái, đầu gối
lên núi Kim Phụng, chân duỗi
ra ngã ba sông ở trước mặt, hai nửa hồ Trừng Minh như đôi cánh tay buông xuôi tự
nhiên.
-
Miêu
tả chi tiết
Từ
ngoài vào trong, các công trình được phân bố trên ba trục song song với nhau mà
Thần đạo là trục trung tâm. Xen giữa những công trình kiến trúc là hồ nước ngát
hương sen và những quả đồi phủ mượt bóng thông, tạo nên một phong cảnh vừa hữu
tình vừa ngoạn mục.
Mở
đầu Thần đạo là Đại Hồng Môn, cổng chính vào lăng, xây bằng vôi gạch, cao hơn
9m, rộng 12m. Cổng này có ba lối đi với 24 lá mái lô nhô cao thấp và các đồ án
trang trí cá chép hóa rồng, long vân... được coi là tiêu biểu của loại cổng tam
quan đời Nguyễn.
Cổng
chỉ mở một lần để đưa quan tài của vua vào trong lăng, sau đó được đóng kín, ra
vào phải qua hai cổng phụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn.
Sau
Đại Hồng Môn là Bái Đình, lát gạch Bát Tràng (sân rộng 45 x 45 m), hai bên có hai
hàng tượng quan văn võ, voi ngựa bằng đá đứng chầu. Cuối sân là Bi Đình tọa lạc
trên Phụng Thần Sơn, bên trong có bia “Thánh đức thần công” bằng đá Thanh ghi
bài văn bia của vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công đức của vua cha. Một khoảng
sân rộng tiếp theo chia làm bốn bậc lớn nhằm giảm bớt cảm giác choáng ngợp của
con người trước sự mênh mông của kiến trúc, đó là sân triều lễ.
Hiển
Đức Môn mở đầu cho khu vực tẩm điện, được giới hạn trong một lớp thành hình
vuông biểu trưng mặt đất (từ ý niệm trời tròn, đất vuông).
Điện
Sùng Ân nằm ở giữa được coi là trung tâm, chung quanh có Tả, Hữu Phối Điện (trước)
và Tả, Hữu Tùng Phòng (sau) như những vệ tinh chung quanh. Trong điện thờ bài vị
của vua và bà Tá Thiên Nhân Hoàng hậu.
Hoằng
Trạch Môn là công trình kết thúc khu vực tẩm điện, mở ra một không gian của hoa
lá và mây nước phía sau. Tất cả những công trình mang tính hiện thực dường như
dừng lại ở khu vực tẩm điện. Từ đây, bắt đầu một thế giới mới đầy thư nhàn,
siêu thoát và vô biên. 17 bậc thềm đá Thanh đưa du khách vào khoảng trời xanh
mát bóng cây và ngát thơm mùi hoa dại.
Ba
chiếc cầu: Tả Phù (trái), Trung Đạo (giữa), Hữu Bật (phải) bắc qua hồ Trừng
Minh như dải lụa xanh, đưa du khách đến Minh Lâu - một công trình như đột khởi
từ quả đồi có tên là Tam Tài Sơn.
Minh
Lâu nghĩa là lầu sáng, nơi nhà vua suy tư vào những đêm hè trăng thanh gió mát,
là nơi đi về của linh hồn tiên đế, là dấu chấm vuông kết thúc một thế giới hữu
hạn, là “bộ ngực kiêu hãnh” của
“con người” được ví bởi hình
dáng của khu lăng.
Minh
Lâu là sự thể hiện cách lý giải về vũ trụ và nhân sinh quan của người xưa. Tòa
nhà này hình vuông, hai tầng, tám mái, là một biểu trưng của triết học phương
Đông. Hai bên Minh Lâu, về phía sau là hai trụ biểu uy nghi dựng trên Bình Sơn
và Thành Sơn mang ý nghĩa nhà vua đã “bình thành công đức” trước khi về cõi
vĩnh hằng.
Một
cái hồ hình trăng non tên là Tân Nguyệt ôm lấy Bửu Thành. Đây là hình ảnh của
thế giới vô biên. Hồ hình trăng non ví như yếu tố “Âm” bao bọc, che chở cho yếu tố “Dương” là Bửu Thành - biểu tượng của mặt trời. Kết cấu kiến trúc
này thể hiện quan niệm của cổ nhân về sự biến hóa ra muôn vật. Đó là nhân tố
tác thành vũ trụ.
Cầu
Quang Minh Chính Trực bắc ngang hồ Tân Nguyệt có 33 bậc tầng cấp dẫn vào nơi
yên nghỉ của nhà vua, nằm giữa tâm một quả đồi mang tên Khải Trạch Sơn, được giới
hạn bởi Bửu Thành hình tròn. Hình tròn này nằm giữa những vòng tròn đồng tâm biểu
trưng, được tạo nên từ hồ Tân Nguyệt, La Thành, núi non và đường chân trời như
muốn thể hiện khát vọng ôm choàng trái đất và ước muốn làm bá chủ vũ trụ của vị
vua quá cố.
Bên
cạnh hàng loạt các công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cao
còn có gần 600 ô chữ chạm khắc các bài thơ trên Bi Đình, Hiển Đức Môn, điện
Sùng Ân và Minh Lâu cũng là những tuyệt tác vô giá. Đó là một “bảo tàng thơ” chọn
lọc của nền thi ca Việt Nam đầu thế kỷ 19.
-
Hiện
trạng
Kiến
trúc Lăng có phần đổ nát nhưng mức độ nhẹ hơn so với số phận của những Lăng
khác , một phần nhờ vào việc Lăng có giá trị về nhiều mặt . Những cây sứ nhiều
năm tuổi công với vẻ hoang toàn mặc cho rêu phong theo chủ ý của Ban bảo vệ di
tích cố đô Huế và quy tắc bắt buộc của UNESCO nhằm không trùng tu các di sản cố ý để tạo nét nguyên
sơ làm cho di tích càng có giá trị. Hiện nay Lăng thu hút du khách đông nhất
sau Lăng Tự Đức.