Trang
▼
TOUR MIỀN TRUNG ĐẶC SẮC NHẤT NĂM 2020 - 2021
▼
Danh Sách Các Dịch Vụ Tại Miền Trung
▼
Tài Liệu Thuyết Minh Quảng Ngãi

Quảng
Ngãi có bờ biển dài khoảng 129 km, ngoài khơi có đảo Lý Sơn và một số đảo nhỏ
khác. Quảng Ngãi hiện có 1 thị xã, 6 huyện miền núi và trung du, 6 huyện đồng bằng
ven biển và huyện đảo Lý Sơn. Ngày 01/12/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 145/2003/NĐ-CP về việc thành lập huyện Tây Trà; mở rộng thị trấn, thành lập
xã và đổi tên xã thuộc các huyện Bình Sơn, Lý Sơn. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng
Nam, phía Nam giáp tỉnh Bình Định, phía Tây giáp tỉnh Kon Tum, phía Đông giáp
biển Đông. Quảng Ngãi có tuyến quốc lộ 1A và đường sắt Bắc - Nam chạy qua tỉnh,
quốc lộ 24 nối Quảng Ngãi với Kon Tum và hạ Lào; đây là tuyến giao thông quan
trọng đối với Kon Tum và Quảng Ngãi trong quan hệ kinh tế, văn hoá giữa duyên hải
và Tây Nguyên, giao lưu trao đổi hàng hoá, phát triển kinh tế miền núi gắn với
an ninh quốc phòng. Phía Bắc tỉnh, tại huyện Bình Sơn đã và đang hình thành khu
kinh tế tổng hợp Dung Quất gần sát sân bay Chu Lai - tại đây có cảng nước sâu
Dung Quất, khu công nghiệp lọc hoá dầu và một số khu công nghiệp khác, khu đô
thị mới Vạn Tường - là một khu kinh tế lớn của đất nước ở miền Trung.
Theo
kết quả điều tra xây dựng bản đồ đất thuộc hệ thống phân loại của FAO - UNESCO,
trên diện tích 513.688,14 ha, Quảng Ngãi có 9 nhóm đất chính với 25 đơn vị đất
và 68 đơn vị đất phụ. Chín nhóm đất chính là: cồn cát, đất cát ven biển, đất mặn,
đất phù sa, đất giây, đất xám, đất đỏ vàng, đất đen, đất nứt nẻ, đất xói mòn
trơ trọi đá. Trong đó, nhóm đất xám có vị trí quan trọng (chiếm 74,65% diện
tích đất tự nhiên) thích hợp với cây công nghiệp dài ngày, cây đặc sản, dược liệu,
chăn nuôi gia súc và nhóm đất phù sa thuộc hạ lưu các sông (chiếm 19,3% diện tích
đất tự nhiên), thích hợp với trồng lúa, cây công nghiệp ngắn ngày, rau đậu… Đất
Quảng Ngãi có thành phần cơ giới nhẹ, hơi chặt, thích hợp với trồng mía và các
cây công nghiệp ngắn ngày.
Theo
kết quả tổng kiểm kê đất đai năm 2002, Quảng Ngãi có tổng diện tích 513.688,14
ha. Trong đó, đất nông nghiệp có 101.535,39 ha (chiếm 19,76% tổng diện tích tự
nhiên của tỉnh); đất lâm nghiệp 150.456,72 ha (chiếm 29,28%); đất chuyên dùng
21.720,45 ha (4,22%); đất ở đô thị 970,11 ha (0,18%); đất ở nông thôn 5.879,45
ha (1,14%) còn lại là đất chưa sử dụng có 233.126,10 ha (chiếm 45,38%).
Theo
kết quả kiểm kê rừng toàn quốc, diện tích đất rừng toàn tỉnh năm 1999 có 102,1
nghìn ha, trong đó: diện tích đất rừng tự nhiên 67,4 nghìn ha, diện tích trồng
rừng 34,7 nghìn ha. tỷ lệ che phủ của rừng mới đạt 27,6% ( cả nước 33,2%, duyên
hải miền Trung là 34,5%). Rừng Quảng Ngãi phong phú về lâm, thổ sản với nhiều
loại gỗ như: trắc, huỳnh, đinh hương, sến, kiền kiền, gụ, giồi…Trữ lượng gỗ khoảng
9,8 triệu m3. So với các tỉnh trong vùng duyên hải miền Trung, vốn rừng
tự nhiên của Quảng Ngãi rất ít, chủ yếu là rừng trung bình và rừng nghèo. Song,
so về trữ lượng (tính trên 1 ha) thì trữ lượng các loại rừng của Quảng Ngãi cao
hơn mức trung bình của cả nước.
Những
khoáng sản có thể khai thác trong 10 năm tới là: graphít trữ lượng khoảng 4 triệu
tấn, trong đó trữ lượng cho phép đưa vào khai thác 2,5 triệu tấn, hàm lượng
cácbon trung bình 20%, có nơi 24% nằm trên địa bàn huyện Sơn Tịnh; silimanhit
trữ lượng 1 triệu tấn, phân bổ ở Hưng Nhượng (Sơn Tịnh); than bùn ở Bình Phú
(Bình Sơn) trữ lượng 476 nghìn m3; cao lanh ở Sơn Tịnh trữ lượng khoảng
4 triệu tấn. Đá xây dựng gồm các loại đá làm vật liệu xây dựng, rải đường giao
thông, áp tường, lát nền, trữ lượng trên 7 tỷ m3, phân bố ở Đức Phổ,
Trà Bồng và một số huyện khác; nước khoáng ở Thạch Bích (Trà Bồng), Đức Lân (Mộ
Đức), Nghĩa Thuận (Tư Nghĩa) và Sơn Tịnh.
Quảng
Ngãi là vùng đất có bề dày lịch sử với nền văn hoá lâu đời như khu du lịch văn
hoá Sa Huỳnh, dấu vết văn hoá cổ xưa như thành cổ Châu Sa, Gò Vàng…, có di tích
lịch sử Ba Tơ, Sơn Mỹ, Ba Gia, Trà Bồng, Vạn Tường; nhiều cảnh đẹp như Thiên Ấn,
Niêm Hà, Thiên Bút, Phê Vân, Thạch Bích, Tà Dương, Cổ Luỹ, Cô Thôn, Nước Trong
– Ca Đam…, nhiều bãi biển như Mỹ Khê, Sa Huỳnh…, những tiềm năng trên là điều
kiện để phát triển du lịch nghỉ dưỡng với nhiều loại hình, sản phẩm du lịch đa
dạng.
Sa
Huỳnh nằm ở cực nam tỉnh Quảng Ngãi, thuộc huyện Đức Phổ, cách thị xã tỉnh lỵ
60 km. Sa Huỳnh là bãi biển đẹp, nổi tiếng là vựa muối quan trọng ở miền Trung.
Bãi biển Sa Huỳnh nằm sát quốc lộ 1A, ở km 985, có ga xe lửa Sa Huỳnh, cho nên
từ Hà Nội vào hay từ thành phố Hồ Chí Minh ra, du khách có thể dừng chân ghé lại
đây rất thuận lợi. Địa danh Sa Huỳnh phải viết cho đúng là Sa Hoàng, có nghĩa
là cát vàng. Thật vậy, màu cát ở đây không trắng như ở nơi khác mà lại có màu
vàng óng ánh thật đẹp. Sở dĩ, phải viết thành Sa Huỳnh, vì chữ “ Hoàng” trùng
tên Chúa Nguyễn Hoàng thời Nguyễn sơ.
Bến
cá Sa Huỳnh Bãi biển Sa Huỳnh chạy dài đến năm, sáu km, cong cong hình lưỡi liềm.
Đáy biển thoai thoải, không có bãi đá ngầm, có thể là những bãi tắm lý tưởng đối
với du khách đến đây nghỉ hè, vui chơi và tắm biển. Ngoài ra, Sa Huỳnh còn có
thắng cảnh ghềnh đá Châu Me, Đảo Khỉ… thu hút du khách vào các ngày nghỉ cuối
tuần và các ngày lễ tết. Để phục vụ khách du lịch, ngành du lịch Quảng Ngãi còn
xây dựng tại đây khách sạn Motel Sa Huỳnh để đón khách đến nghỉ ngơi, an dưỡng.
Từ lâu, Sa Huỳnh được biết đến như là di chỉ khảo cổ học với “Văn hóa Sa Huỳnh
“. Đầu thế kỷ 20, các nhà khảo cổ học người Pháp như Vinet, Labare, Colani đã
phát hiện ở Sa Huỳnh hàng loạt mộ chum và nhiều hiện vật tiêu biểu cho nền văn
hóa cổ xưa bị chìm khuất dưới lòng đất qua thời gian dài lịch sử. Các kết quả
khai quật được nghiên cứu và kết luận, dải đất từ Đèo Ngang cho đến Đồng Nai
(Nam Bộ) lên cả Tây Nguyên, từ sơ kỳ đồng thau cho đến sơ kỳ sắt đá nơi hiện diện
một nền văn hóa độc đáo của nhân loại và được định danh bằng khái niệm “Văn hóa
Sa Huỳnh”'.
Những
gò Ma Vương, gò Điều Gà … là những nơi có nhiều dấu tích của nền văn hóa Chăm
pa, từ lâu đã thu hút nhiều du khách đến tham quan và nghiên cứu. Sa Huỳnh đã
đi vào lịch sử nước nhà, là nơi mà hơn 500 năm trước, đoàn quân nam chinh của
vua Lê Thánh Tông dừng chân lại đây nghỉ ngơi và luyện tập, biên chế thành đội
ngũ trước khi tiến đánh cửa Thị Nại và kinh thành Đồ Bàn. Sa Huỳnh trở thành hải
tấn quan trọng thời nhà Nguyễn để canh phòng mặt biển. Đến khi người Pháp đến
xâm lược đất nước ta, mở tuyến đường sắt bắc - nam, lại cho xây dựng ga xe lửa
Sa Huỳnh để vận chuyển muối từ Sa Huỳnh đi các nơi khác. Sa Huỳnh qua bao lần
biến đổi đã trở thành nơi nghỉ mát, du lịch hè lý tưởng. Sa Huỳnh có đủ các món
ngon đặc sản biển nhưng hấp dẫn nhất là món mắm nhum và cua huỳnh đế. Người Sa
Huỳnh có câu: “Giàu chất của kho, nghèo lo hủ mắm”. Con nhum (cầu gai) đã hiếm
và chỉ bắt theo mùa. Còn mắm nhum thì hiếm hơn. Mắm nhum Sa Huỳnh nổi tiếng cả
nước, thời nhân Nguyễn, vua Minh Mạng hạ lệnh hằng năm địa phương phải “tiến” về
kinh đô 12 cân mắm.
Muối Sa Huỳnh từ lâu có mặt khắp các
thị trường miền Trung và Tây Nguyên, và dùng nhiều trong công nghiệp chế biến
thực phẩm tiêu dùng. Từ làng chài nghèo nàn và hoang sơ, Sa Huỳnh ngày nay đã
trở thành một thị tứ nho nhỏ, xinh xinh nằm ẩn mình dưới hàng dương rủ bóng thướt
tha và rừng dừa thơ mộng, là nơi mà ai đã đến một lần thì thông thể quên, không
những vì cuộc mưu sinh ở đây dễ dãi mà còn vì tình cảm con người ở đây mộc mạc
và thiết tha: Ngó ra ngoài bãi cát vàng, Cát bao nhiêu hạt, thương chàng bấy
nhiêu Ngay cả như nhà thơ Xuân Diệu, sinh thời đã có một lần đến Sa Huỳnh, như
đã cảm nhận được vẻ đẹp của đất, trời, biển nước ở đây và đã thốt lên: “Hỏi
mình biển đẹp vô ngần, Sóng xanh như đến dừng chân Sa Huỳnh”.
Núi Thiên Bút có tên mỹ miều là Thiên
Bút Phê Vân nghĩa là "Bút trời vẽ mây".
Một ngọn núi nhỏ ở phường Chánh Lộ , nằm ở phía Nam thành phố Quảng Ngãi , cách
trung tâm thành phố 2km, nằm trên quốc lộ 1A. Hình núi tròn trặn, đỉnh nhỏ tua
tủa cây cối, xa trông như ngọn bút lông.
Xưa kia núi này có nhiều cây trâm, cây móc. Hai thứ cây này có quả màu tím đen.
Lá móc thường dùng để nhuộm sắc đen. Bên chân có một gò vuông gọi là hòn
Nghiên.
Tương truyền trên đỉnh Bút có ngôi chùa cổ (hiện còn nền) ngoài ra còn có một
cây quế rừng rất quý.
Người dân địa phương từng nhiều lần gắng công tìm cây quế mà không gặp nhưng thỉnh
thoảng người ta vẫn tìm được lá quế rụng dưới chân. Có nhiều đêm bỏng hương quế
bay ngào ngạt cả một vùng.
Người dân phường Nghĩa Chánh có kể lại: Thời Pháp thuộc có người làm nghề kéo
xe tên Phụng, nhà nghèo ở gần núi Thiên Bút đã có lần tình cờ lượm được lá quế.
Ông này đem về sắc thuốc cho mẹ đang bị bịnh nặng. Người mẹ hết bịnh sau khi uống
nước lá quế. Núi Thiên Bút là địa cuộc phát triển văn phong cho một hạt. Ngọn
Thiên Ấn cao 101m, ngọn Bút chỉ cao 61m.
Các thầy địa lý thường nói rằng: Hòn Ấn lấn hòn Bút, vì vậy người dân Quảng
Ngãi dù có học giỏi, tài cao cũng không bao giờ làm lớn đến cực phẩm triều
đình, còn những người làm lớn thì học lực không mấy uyên thâm.
Buổi sáng sương mù bốc lên chập chờn lưng chừng đồi tỏa dần trên đỉnh núi chan
hòa với mây cao. Ngọn núi nhọn bị sương che lấp xa xa như một ngòi bút viết
trên mây. Đây là núi Thiên Bút phê vân. Và mỗi lần có bút phê vân thì dân địa
phương tin có việc lớn sẽ xảy ra trong tỉnh.
Theo cái nhìn của thi nhân du khách, hòn Bút đứng riêng không tạo được vẻ đẹp
quyến rũ. Nhưng nếu mượn gió mây, mượn chim qua lại rồi đứng xa nhìn với mắt tưởng
tượng thì sẽ thấy ngòi bút vảy gió viết hàng nhạn vào những bức mây trải rộng
trên nền trời xanh, tạo nên vẻ đẹp thơ mộng.
Sơn Mỹ thuộc tỉnh Quảng Ngãi, được nhà
nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia, là khu di tích lịch sử, nơi ghi
lại tội ác đế quốc Mỹ đối với nhân dân Việt Nam. Di tích vụ thảm sát Sơn Mỹ nằm
trên địa bàn xã Tịnh Khê, huyện Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, cách thành phố Quảng
Ngãi 13km về phía đông bắc. Ngày 16/3/1968, một cuộc hành quân huỷ diệt dã man
chưa từng thấy, được quân xâm lược Mỹ mưu tính và thực hiện, đánh vào người dân
Sơn Mỹ vô tội không một tấc sắt trong tay. Với chủ trương: đốt sạch, phá sạch,
giết sạch, chúng đã biến nơi này thành vùng đất chết.
Lính Mỹ đã đổ bộ xuống phía tây xóm Thuận Yên thôn Tư Cung và xóm Gò thôn Cổ
Lũy và cuộc thảm sát bắt đầu. Số người tàn sát ở thôn Tư Cung là 407 người, tại
thôn Mỹ Hội là 97 người. Tổng số người bị tàn sát ở Sơn Mỹ là 504 người, trong
đó có 182 phụ nữ, 173 trẻ em, 60 cụ già, 24 gia đình bị giết sạch, 247 ngôi nhà
bị thiêu cháy. Vụ thảm sát Sơn Mỹ là đỉnh cao trong muôn vàn tội ác của đế quốc
Mỹ đối với nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa, bị cả
loài người lên án.