Trang
▼
TOUR MIỀN TRUNG ĐẶC SẮC NHẤT NĂM 2020 - 2021
▼
Danh Sách Các Dịch Vụ Tại Miền Trung
▼
Tài Liệu Thuyết Minh Bình Định
Địa
hình của tỉnh tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang Đông của dãy Trường Sơn,
độ cao trung bình 500 – 700 m, kế tiếp là vùng trung du. Địa hình phổ biến là đồi
thấp xen kẽ thung lũng hẹp có độ cao dưới 100 mét, hướng vuông góc với dãy Trường
Sơn. Vùng thấp là vùng đồng bằng rải rác có đồi thấp xen kẽ. Địa hình đồng
bằng nghiêng nên rất dễ bị rửa trôi, dẫn đến đất bị bạc màu và mặn hoá.
Ngoài vùng là cồn cát ven biển. Các địa hình chủ yếu của tỉnh là: vùng núi
trung bình phía Tây (chiếm 70% diện tích tự nhiên của tỉnh, cao từ 500 - 700
mét, độ dốc trên 250 kéo dài theo chiều Bắc - Nam qua các huyện
Hoài Ân, An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân Canh, bị chia cắt mạnh; vùng này có dãy núi
cao trên 1.000 mét); vùng đồi, tiếp giáp giữa vùng núi phía Tây và đồng bằng
phía Đông (chiếm khoảng 10% diện tích, độ cao dưới 100 mét, độ dốc 10 – 150);
vùng đồng bằng ven biển (chiếm 20% diện tích, đồng bằng nhỏ hẹp theo hạ lưu các
sông và bị chia cắt thành nhiều mảnh nhỏ. Ven biển có nhiều đầm, vịnh, cửa biển)
Bình
Định hiện có khoảng 196.000 ha đất lâm nghiệp, trong đó trên 151.500 ha rừng tự
nhiên và hơn 44.300 ha rừng trồng. Rừng hiện nay còn tập trung chủ yếu ở những
vùng xa đường giao thông nên chỉ có ý nghĩa lớn về phòng hộ và bảo vệ môi trường.
Xét theo mục đích kinh tế thì rừng sản xuất có 65,5 nghìn ha, rừng phòng hộ có
gần 128 nghìn ha. Rừng Bình Định có hơn 40 loài cây có giá trị dược liệu, phân
bố hầu khắp ở các huyện như: ngũ gia bì, sa nhân, thiên niên kiện, bách bộ, thổ
phục linh, hoàng đằng, thiên môn, phong kỷ, kim ngân. Vùng trung du, ven biển
có cây dừa, trám, đặc biệt cây mai gừng có giá trị dược liệu cao, nhưng chủ yếu
phân bố ở vài vùng đất hẹp tại huyện Vĩnh Thạnh. Cây sa nhân cũng có giá trị xuất
khẩu cao.
Tài
nguyên khoáng sản ở Bình Định khá đa dạng, đáng chú ý nhất là đá granít có trữ
lượng khoảng 500 triệu m3, với nhiều màu sắc đỏ, đen, vàng… là vật
liệu xây dựng cao cấp được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng; sa khoáng
titan tập trung ở mỏ Đề Gi (Phù Cát) trữ lượng khoảng 1,5 triệu m3;
cát trắng ở Hoài Nhơn, trữ lượng khoảng 90.000 m3. Nhiều nguồn nước
khoáng được đánh giá có chất lượng cao đã và đang được đưa vào khai thác sản xuất
nước giải khát, chữa bệnh. Toàn tỉnh có 4 nguồn nước khoáng là Hội Vân, Chánh
Thắng (Phù Cát), Bình Quang (Vĩnh Thạnh), Long Mỹ (Tuy Phước), riêng nguồn nước
khoáng nóng Hội Vân đảm bảo các tiêu chuẩn chữa bệnh và có thể xây dựng nhà máy
điện địa nhiệt. Ngoài ra, còn có các khoáng sản khác như cao lanh, đất sét và đặc
biệt là các quặng vàng ở Hoài Ân, Vĩnh Thạnh, Tây Sơn.
Bình
Định có nhiều vùng vịnh với những bãi tắm đẹp và danh lam thắng cảnh biển hài
hoà, hấp dẫn như bán đảo Phương Mai, bãi tắm Hoàng Hậu, Đảo Yến, Quy Hoà, Bãi
Dài, Vĩnh Hội, Tân Thanh,..là nguồn tài nguyên thiên nhiên rất phong phú để
phát triển du lịch. Bình Định có một quần thể di tích với những tên gọi
đã trở nên quen thuộc như tháp Dương Long, Cánh Tiên, Bánh Ít, Bình Tiên, Tháp
Đôi,..
Về vị trí địa lý, có thể hình dung Bình Định
như một tâm điểm nối với các vùng du lịch của cả miền như Nha Trang, Plâyku, Hội
An, Đà Nẵng, Huế,..đồng thời cũng là điểm nút giao thông nối với quốc lộ 19 –
ngã ba Đông Dương , đường Hồ Chí Minh, tạo điều kiện cho tỉnh phát triển du lịch
biển gắn với du lịch núi và cao nguyên, phát triển du lịch nội địa và du lịch
quốc tế. Chính vì vậy, trong quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến
năm 2010, Bình Định được xác định là có một vị trí quan trọng của vùng du lịch
Nam Trung Bộ, là một mắt xích quan trọng hệ thống các tuyến điểm du lịch quốc
gia.
Qui
Nhơn có nhiều thế đất khác nhau, đa dạng về cảnh quan địa lý như núi rừng, gò đồi,
đồng ruộng, ruộng muối, bãi, đầm, hồ, sông ngòi, biển, bán đảo và đảo. Bờ biển
Qui Nhơn dài 42 km, diện tích đầm, hồ nước lợ lớn, tài nguyên sinh vật biển
phong phú, có nhiều loại đặc sản quí, có giá trị kinh tế cao... Các ngành kinh
tế chính của thành phố gồm công nghiệp, thương mại, xuất nhập khẩu, dịch vụ cảng
biển, nuôi và khai thác thuỷ hải sản, du lịch.
Truyền
thuyết kể rằng, ngày xưa có một cô gái "sắc nước, hương trời" ở Bồng
Sơn bị bọn tham quan, vô lại truy đuổi định cưỡng bức nên phải chạy trốn vào
Quy Nhơn. Đến Ghềnh Ráng, bỗng dưng sấm chớp bão bùng, núi nứt một khe lớn và
nàng biến mất. Người yêu cô gái tìm đến chỉ còn thấy bóng nàng ẩn hiện trên bầu
trời. Từ đó nơi đây được đặt tên là "Ghềnh Ráng Tiên sa".
Ghềnh Ráng không chỉ đẹp bởi truyền thuyết mà thực tế cũng là một bức tranh sơn
thủy hữu tình, hiếm nơi nào có được. Phía tây nam núi xanh trùng điệp như muốn
vươn tận trời xanh. Phía đông bắc biển xanh bao la, ôm lấy bãi cát vàng, cong
cong như trăng lưỡi liềm mùa hạ. Đi dọc theo triền núi ta sẽ được chiêm ngưỡng một
số "tác phẩm" tuyệt đẹp của thiên nhiên. Có tảng đá hình đầu sư tử chồm
ra biển như muốn lao xuống dòng nước sâu thẳm. Tượng Vọng phu trầm tĩnh xa xăm.
Rồi những gấu đá, voi đá nằm chầu như đang canh giữ biển trời. Hòn Chồng mới
nhìn tưởng mong manh, có thể đổ sụp bởi một làn gió nhẹ nhưng bao đời vẫn sừng
sững trước phong ba bão táp.
Ít
lâu sau, ông mắc bệnh
phong - một căn bệnh nan y thời đó. Ông bỏ tất cả quay về Quy Nhơn và mất khi mới
28 tuổi. Cuộc đời của ông được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ
nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông - có những người ông
đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉ biết
tên như Hoàng Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện.
Đến
1775, nhà
Tây Sơn xây dựng lại kiên cố, đặt tên là Thành Hoàng Đế từ năm 1778. Từ năm
1776 đến 1793 là đại bản doanh của quân Tây Sơn và sau đó là kinh đô của chính
quyền Trung ương Hoàng đế Thái Đức - Nguyễn Nhạc. Thành Hoàng đế nguyên là một tổng
thể kiến trúc hình chữ nhật gồm ba vòng thành: Thành Ngoại, Thành Nội và Tử Cấm
Thành. Thành Ngoại có chu vi 7400m, Thành Nội còn được gọi là Hoàng Thành có
hình chữ nhật dài 430m, rộng 370m. Bên trong Thành Nội có Tử Cấm Thành cũng
hình chữ nhật dài 174m, rộng 126m.
Sau khi bị nhà Nguyễn thôn tính, thành đã bị tàn phá. Di tích hiện nay không
còn nguyên vẹn, chỉ còn sót lại Cổng Tam Quan và các bức tường thành. Tường
thành xây bằng đá ong, có hào, đường lát đá hoa cương. Trong thành có di tích
cũ của người Chăm như giếng vuông, tượng nghê, voi đá. Bên cửa hậu có gò Thập
Tháp, trên gò có 10 ngôi tháp Chàm, hiện nay không còn. Đặc biệt có ngôi tháp
Cánh Tiên cao gần 20 m, góc tháp có tượng rắn làm bằng đá trắng, hai voi đá và
nhiều tượng quái vật. Chùa Thập Tháp nằm ở phía Bắc Thành, chùa Nhạn Tháp nằm ở
Nam thành là những ngôi chùa cổ, trong đó còn giữ được nhiều di tích, hiện vật
liên quan đến văn hóa Chăm Pa và phong trào Tây Sơn. Thành đã được xếp hạng Di
tích Lịch sử năm 1982.
Tháp
Cánh Tiên nằm giữa thành Ðồ Bàn, thuộc làng Nam An, xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn,
tỉnh Bình Định, cách thành phố Qui Nhơn 27km về hướng tây bắc. Tháp xây trên một
đỉnh đồi cao chừng vài chục thước, thờ bà Nữ Thần Y A Na.
Tháp Cánh Tiên có bề mặt vuông, nhiều tầng xây bằng gạch, cao gần 20m, trông xa
giống như đôi cánh của nàng tiên đang bay lên trời.
Đây là một trong những ngôi tháp điển hình cho phong cách kiến trúc Bình Định.
Kết cấu gồm tiền sảnh và điện thờ (tiền sảnh bị đổ sụp). Phía ngoài thân tháp,
các mặt tường được trang trí những cột ốp và các khung dọc nhô ra. Khác với các
tháp chàm khác, tháp Cánh Tiên được xây dựng một phần bằng sa thạch ở nửa phía
ngoài các cột ốp tường và các góc diềm mái. Tại bốn góc ở mỗi tầng của tháp có
các chi tiết bằng đá hình đuôi phượng nhô ra.
Vào lúc 0h30 phút đêm mùng 4 rạng sáng mùng 5 tết Ất
Tỵ, lực lượng chủ công của Tiểu đoàn 2, thuộc Trung đoàn 2 (Sư đoàn 3 Sao Vàng)
cùng bộ đội địa phương huyện Phù Mỹ đã bí mật, bất ngờ tập kích vào đồn Dương
Liễu. Trong thời gian rất ngắn khoảng chừng
10 phút, với tinh thần chiến đấu dũng cảm, địch không kịp trở tay, quân ta hoàn
toàn làm chủ trận địa, diệt gọn 1 đại đội Cộng hòa và 4 trung đội dân vệ, làm
chết gần 200 tên, thu 170 súng và nhiều quân trang, quân dụng các loại. Tuyến
phòng thủ của địch dọc đường số 1 ở phía Bắc Bình Định bị uy hiếp nặng.
Tuy bị đánh bất ngờ nhưng với số đông, vũ khí trội
hơn địch hung hăng chống trả khá quyết liệt. Các trận địa pháo của chúng cùng
các tốp máy bay chiến đấu của địch nã pháo, bom bừa bãi xuống trận địa. Nhờ ý
chí chiến đấu quả cảm của cán bộ chiến sỹ tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 3, càng về sau
vòng vây của quân ta càng siết chặt. Các chiến sĩ ta với tinh thần mưu trí,
dũng cảm áp sát đội hình địch, dùng chiến thuật cá nhân đánh giáp lá cà với địch.
Đến 16h30 cùng ngày, bộ đội ta hoàn toàn làm chủ trận địa, quân địch số bị chết,
số bị thương nằm ngổn ngang trên đường. Số tàn quân ngụy, có cả cố vấn Mỹ còn lại
chạy ra vòng ngoài bị du kích và đồng bào các xã Mỹ Trinh, Mỹ Phong truy bắt và
tiêu diệt.
Như vậy, trong vòng 2 giờ chiến đấu tại Đèo Nhông ta
đã diệt hơn 700 tên giặc, bắn cháy 4 máy bay và 2 chi đội xe bọc thép M.113, bắt
sống 2 xe, thu toàn bộ vũ khí, khí tài và các loại quân dụng khác. Trong thời
điểm này, tại cứ điểm An Lương án ngự phía Đông huyện lỵ, dưới sự chỉ đạo của
chi bộ Mỹ Chánh lực luợng dân quân du kích xã, thôn cùng quần chúng nổi dậy. Do
thất bại ở Dương Liễu - Đèo Nhông, chiều mùng 7, phân đội M.113 gồm 3 chiếc
cùng lính cộng hòa rút lên Phù Mỹ, xã Mỹ Chánh hoàn toàn giải phóng lại lần thứ
2.
Lưu
luyến đất dừa, trước khi lên xe đi tiếp, khách không quên thưởng thức nước cốt
dừa Tam Quan. Trước cửa dãy nhà phố nhỏ ngổn ngang những buồng dừa xếp đống. Mỗi
buồng có tới vài ba chục quả tươi đủ các màu quyến rũ: màu xanh mượt của dừa nạo,
vàng óng của dừa lửa và lạ lẫm là dừa xiêm chỉ to bằng trái bưởi mà vị ngọt như
đường phèn hòa trong nước mát.
Cơn đói đã qua cơn khát không còn nữa, sau giây phút tận hương một bữa ăn ấn tượng
dọc đường khách cố ngồi thêm chút nữa để ngắm thêm một lần bóng dừa cao vời vợi,
chùm quả xanh tròn trịa với dòng sông nhỏ, với những con lạch bao quanh đê tưới
tiêu một cách tự nhiên cho một vùng cây trái.
Những sớm mai mát lành gió biển Đông, rừng dừa xôn xao lay động, ngọn cây tán
lá đung dưa, dưới gốc liền kề tiếng mái chèo khua nước nhẹ nhàng, con thuyền nhỏ
êm trôi chầm chậm, trong khoang chất đầy trái ngọt, những chùm dừa xanh ấy được
chuyên chở về đâu?
Hèn nào mà người dân Nghĩa Bình xưa lúc đi xa vẫn nhớ mãi một góc quê mình. Họ
hát: “Ai xa Bình Định Tam Quan, Mà không vương vấn những hàng dừa xanh”.
Đi sâu vào một đoạn đường làng phủ dầy cát mịn, rợp bóng những hàng dừa tơ, bất
ngờ gặp những đôi trái gái làng cùng nhau ngồi dưới gốc cây tước sơ dừa bện
chão. Những vòng dây dừa cuộn xoắn vào nhau trong giọng hát xa xa. Có ai nghe
thấy họ đang hát về tình yêu đôi lứa, về quê hương yêu dấu, về hạnh phúc thanh
bình? Những sải dây dừa đủ cỡ sợi to để néo buộc thuyền, sợi nhỏ mỏng manh dành
cho em gái nhảy dây trong sân trường góc phố.
Khách lãng du cứ việc xem việc ngó những gì chuyển động những gì tĩnh tại rồi
thả bộ dưới bóng râm rừng dừa mặc cho trời hè soi nắng nhưng tuyệt nhiên chẳng
có một tia nắng lọt qua được những tán lá dày khép kín không trung.
Khách bộ hành cứ thủng thẳng bước đi chậm chạp dạo chơi như đi trước sân đình
không mưa, không nắng. Rừng dừa bao giờ cũng sạch mát, mặt đất nhẵn trơn không
một bụi cây lùm cỏ hoang dại nào mọc lẫn vào dây làm cho ai đó cứ tưởng là một
sân chơi trong công viên bát ngát nơi đô thị.
Rừng dừa Tam Quan một thời xơ xác khói lửa chiến tranh, giờ đây, sau 30 năm giải
phóng, rừng dừa Tam Quan lại ngút ngàn mượt xanh hơn bất cứ bao giờ. Suốt một
giải đất ven bờ miền Trung dài dặc mà trung tâm là Tam Quan biết bao bóng dừa
cao vút xanh rờn vẫn luôn lả lướt soi mình bên bãi cát dòng sông hay trước thềm
nhà, bờ ao, ngoài ngõ, cuối vườn. Cây dừa đã che mát cho một vùng nhiệt đới với
cái nắng hè khắt khe nóng bỏng. Ta xin cảm tạ và mãi biết ơn rừng dừa ở bất cứ
đâu.
Ôngquê gốc ở làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn , phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộcxã Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia), nhưng nơi Đào Duy Từ bắt đầu sự nghiệp củamình để rồi trở thành một nhân vật nổi tiếng lại là đất Tùng Châu (nay thuộchuyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định).Năm 1627 Đào Duy Từ được tiến cử lên chúa Nguyễn Phúc Nguyên và được trọng dụngphong làm Nha Nội tán, Tước Khê Lộc hầu, trong coi việc quân cơ trong ngoài vàcho được tham bàn quốc sự. Ông là người đề xuất với chúa Nguyễn cho đắp lũy TrườngDục (Quảng Bình) và một lũy khác chạy dài từ cửa biển Nhật Lệ đến núi Đào Mậuthuộc Đồng Hới, tục gọi là lũy Thầy dài hơn 3000 trượng, cao 1 trượng 5 thước.Đây là 2 công trình phòng thủ lợi hại giúp chúa Nguyễn ngăn chặn hiệu quả cáccuộc xâm lấn của quân Trịnh. Đào Duy Từ mất năm 1634 (hưởng thọ 63 tuổi). Chúa Nguyễn thương tiếc, đã truy tặngông Hiệp mưu đồng đức công thần, đặc tiến trụ quốc kim tử Vinh lộc đại phu Tháithượng tự khanh lộc khê hầu. Năm Gia Long thứ tư (1804), xét công trạng cáckhai quốc công thần, Đào Duy Từ được xếp vào hạng Thượng đẳng, cho thờ phụng ởThái miếu, năm Gia long thứ 9 (1810) được liệt thờ ở miếu khai quốc công thần,năm Minh mệnh thứ 12 (1831) truy phong đông cát đại học sĩ, Thái sư hoàn quốccông. Với tư cách một nhà chính trị, ĐàoDuy Từ đã giúp chúa Nguyễn đưa xã hội Đàng Trong từng bước đi vào thể chế ổn định.Ông cũng đề nghị chúa Nguyễn cho tổ chức các kỳ thi để chọn người tài và thựcthi nhiều chính sách có lợi cho quốc kế dân sinh. Là một nhà thơ, Đào Duy Từcòn để lại cho đời một số tác phẩm có giá trị. Bài Ngọa Long cương vãn gồm 136câu lục bát từ lâu được phổ biến rộng rãi. Ngoài ra, tương truyền rằng vở tuồngSơn Hậu cũng như các điệu múa Hoa Đăng,Nữ tướng xuất quân cũng điều do Đào DuyTừ sáng tác. Sinh ra và lớn lên ở Thanh Hóa nhưng làng Tùng Châu thuộc xã Hoài thanh (HoàiNhơn) là nơi đã hun đúc thêm tài năng và ý chí của ông, giúp ông bắt đầu một sựnghiệp lớn. Sau khi ông qua đời chúa Nguyễn cho đưa thi hài về mai táng và lậpđền thờ tại đây. Hiện nay trên vùng đất thuộc Tùng Châu xưa vẫn còn một số ditích liên quan đến Đào Duy Từ . Di tích lăng mộ Đào Duy Từ nay thuộc địa phận thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyệnHoài Nhơn. Năm Gia Long thứ 4 (1805) nhà Nguyễn xét công trạng khai quốc côngthần, Đào Duy Từ được xếp hàng đầu, được cấp 15 mẫu tự điền và 6 người trôngcoi phần mộ. Đến năm Minh mệnh thứ 17 (1836), triều đình lại sai dân sở tại sửachữa lăng mộ cho ông. Trải qua thời gian và chiến tranh, lăng mộ ông bị hư hạinhiều. Lần sửa sang gần đây nhất được tiến hành năm 1999. Từ thị trấn Bồng Sơn ruổi theo Quốc lộ 1A khoảng 7 km tới cột cây số 1138 rồi rẽhướng tây là sẽ đến các địa chỉ cần tìm. Cỏ trên mộ ông luôn ấm hơi người, củacon cháu, của bà con nơi đây, của khách thập phương. Bởi cuộc đời đầy nhữngtình tiết ly kỳ của ông, bởi tấm lòng của ông với vùng đất quê hương thứ hainày, bởi sự nghiệp lẫy lừng của ông với chúa Nguyễn, với nhân dân Đàng Trong vẫnsẽ còn sống mãi với thời gian.