Trang
▼
TOUR MIỀN TRUNG ĐẶC SẮC NHẤT NĂM 2020 - 2021
▼
Danh Sách Các Dịch Vụ Tại Miền Trung
▼
Tài Liệu Thuyết Minh Đà Nẵng
Tiềm
năng phát triển kinh tế và du lịch
Thành phố Đà Nẵng được thành lập từ năm 1888, từ xa xưa đã là hải cảng quan trọng
của Việt Nam, nay là một trung tâm kinh tế, một thành phố lớn nhất miền Trung.
Đà Nẵng không chỉ gắn bó mật thiết với Quảng Nam mà còn với cả miền Trung, Tây
Nguyên, nam Lào, đông bắc Cam-pu-chia.
Đà Nẵng có khu vực cảng Đà Nẵng với cảng biển Tiên Sa (cảng sâu) và 9 cầu cảng
dọc sông Hàn, có sân bay quốc tế Đà Nẵng, có hệ thống thông tin liên lạc hiện đại.
Đà Nẵng còn là nơi hội tụ các xí nghiệp lớn của các ngành dệt, sản xuất hàng
tiêu dùng, công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất vật
liệu xây dựng.
Đến với vùng đất Đà Nẵng, du khách sẽ có dịp đi thăm các danh lam thắng cảnh nổi
tiếng như núi Bà Ná, Ngũ Hành Sơn, đèo Hải Vân, bán đảo Sơn Trà... và có thể
bơi lội thoả thích ở các bãi biển đẹp, cát trắng mịn kéo dài hàng chục ki lô
mét. Tiềm năng du lịch của vùng đất Đà Nẵng thật to lớn.
Giao thông
Thành phố Đà Nẵng nằm trên trục đường bộ, đường sắt, đường
thủy và đường hàng không của cả nước và khu vực. Đà Nẵng nằm trên tuyến đường sắt
Bắc Nam và quốc lộ 1A, cách Hà Nội 763km. Từ Đà Nẵng có các chuyến bay đi Hà Nội,
Hồ Chí Minh, Nha Trang, Buôn Ma Thuột, Pleiku. Có 5 đường bay quốc tế trực tiếp
đến Đà Nẵng đã được mở từ Bangkok, Hong Kong, Siêm Riệp, Đài Bắc và Singapore với
5 hãng hàng không: Vietnam Airlines, PB Air, Siem Riep Air way, Far
Transportasion và Sil Airway.
Ngũ
Hành Sơn thuộc phường Hoà Hải, quận Ngũ Hành Sơn, cách trung tâm thành phố Đà Nẵng
khoảng 7km về phía đông nam. Ngũ Hành Sơn nằm trên một dải cát vàng chiều dài
khoảng 2km, rộng khoảng 800m.
Ngũ Hành Sơn không cao, sườn núi dốc đứng cheo leo, cây cỏ lơ thơ. Đá ở Ngũ
Hành Sơn là loại đá cẩm thạch có nhiều màu: sáng đục, trắng sữa, hồng phấn, xám
vân đỏ, nâu đen, xanh đậm..., không cứng lắm và là chất liệu rất tốt cho tạc tượng
và đồ mỹ nghệ trang trí.
Có nhiều truyền thuyết về sự hình thành Ngũ Hành Sơn, trong đó có truyện kể rằng:
“Ngày xưa, nơi đây là một vùng biển hoang vu,
chỉ có một ông già sống đơn độc trong một túp lều tranh. Một hôm, trời đang
sáng bỗng nhiên tối sầm, giông bão nổi lên, một con giao long rất lớn xuất hiện
vùng vẫy trên bãi cát và một quả trứng khổng lồ từ từ lăn ra ở dưới bụng. Sau
đó giao long quay ra biển đi mất. Lát sau, một con rùa vàng xuất hiện, tự xưng
là thần Kim Quy, đào cát vùi quả trứng xuống và giao cho ông già nhiệm vụ bảo vệ
giọt máu của Long Quân. Quả trứng càng ngày càng lớn, nhô lên cao chiếm cả một
vùng đất rộng lớn. Vỏ trứng ánh lên đủ mầu sắc xanh, đỏ, trắng, vàng, tím lấp
lánh như một hòn gạch khổng lồ.
Một hôm, ông lão vừa chợp mắt thì nghe có tiếng lửa cháy, ông cầu cứu móng rùa
- vật mà thần Kim Quy đã giao lại cho ông lúc ra đi và trong lòng trứng xuất hiện
một cái hang rộng rãi, mát mẻ. Ông đặt lưng xuống ngủ thiếp luôn và không biết
đang xẩy ra một phép lạ: một cô gái xinh xắn bước ra từ trong trứng và nơi ông
nằm là một trong năm hòn đá cẩm thạch vừa được hình thành từ năm mảnh vỏ của quả
trứng...”.
Ngũ
Hành Sơn gồm có 5 ngọn: Thuỷ Sơn và Mộc Sơn ở phía đông, Thổ Sơn, Kim Sơn, Hoả
Sơn ở phía tây. Trong tư duy triết học của Trung Hoa thì ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ là những yếu tố cấu thành vũ trụ. Con số 5 là con số cực kỳ quan trọng
trong tư duy và trong đời sống phương Đông vì vậy 5 ngọn Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy
Sơn, Hỏa Sơn, Thổ Sơn tự trong mình nó đã hàm chứa những vẻ kỳ bí dị thường.
Ngọn
cao nhất ở phía tây bắc gọi là Thượng Thai, ngọn phía nam thấp hơn gọi là Trung
Thai và ngọn phía đông thấp nhất gọi là Hạ Thai. Các chùa chiền và hang động tập
trung chủ yếu ở Thuỷ Sơn. Ở ngọn Thượng Thai có Vọng Giang Đài, tháp Phổ Đồng,
chùa Từ Tâm, chùa Tam Tâm, chùa Tam Thai, Hành Cung, động Hỏa Nghiêm, động Huyền
Không, động Linh Nham và động Lăng Hư.
Ở ngọn Trung Thai có hai cổng động Thiên Phước Địa, Văn Căn Nguyệt và các động
Vân Thông, Thiên Long, hang Vân Nguyệt. Ngọn Hạ Thai có Vọng Hải Đài, chùa Linh
Ứng, động Ngũ Cốc, Tàng Chân còn phía dưới núi là Giếng Tiên và động Âm Phủ.
Lên
thăm chùa chiền và hang động Thuỷ Sơn, du khách có thể đi bằng hai đường: đường
tam cấp phía tây nam dẫn lên chùa Tam Thai có 156 bậc hoặc tam cấp phía đông dẫn
đến chùa Linh Ứng có 108 bậc.
Leo đến khoảng giữa đường tam cấp phía tây, quý khách sẽ gặp cổng ngoài của
chùa Tam Thai nhưng hãy khoan vào chùa ngay mà nên rẽ trái, vòng hướng chùa Từ
Tâm, chùa Tam Tâm và Phổ Đồng ra thăm Vọng Giang Đài chếch về phía phải chùa
Tam Thai.
Ở đây có một tấm bia bằng đá Trà Kiệu rộng 1m, cao 2m dựng trên một nền đế rộng.
Trên mặt bia khắc 3 chữ Hán lớn “Vọng Giang Đài” (Đài ngắm sông) và một dòng chữ
nhỏ ghi ngày tháng năm dựng bia “Minh Mạng thập bát niên thất nguyệt cát nhật”
(Năm Minh Mạng thứ 18, tháng 7, ngày tốt). Đứng ở đây có thể nhìn thấy bao quát
cả một vùng đồng ruộng mênh mông của Đà Nẵng, Quảng Nam và các con sông Trường
Giang, Cẩm Lệ bao quanh. Lên đến chùa Tam Thai là du khách đã đến với một di
tích quốc gia và cũng là di tích Phật giáo.
Theo sử liệu, chùa được xây dựng cách đây ít nhất 300 năm. Năm 1825, Minh Mạng
trong chuyến tuần du Ngũ Hành Sơn đã cho xây lại chùa Tam Thai và đến năm 1927
đã cho đúc 9 tượng và 3 chuông lớn. Vòng ra sau lưng chùa Tam Thai theo một con
đường đất, du khách sẽ gặp một cổng vôi cổ kính không biết xây từ bao giờ, trên
có 3 chữ Hán “Huyền Không Quan”. Đây là cửa vào động Hoả Nghiêm và động Huyền
Không.
Cụm
chùa chiền hang động Hạ Thai gồm có Vọng Hải Đài, chùa Linh Ứng, động Tàng
Chân, động Ngũ Cốc, động Âm Phủ, Giếng Tiên. Vọng Hải Đài là điểm cao bên phải
chùa Linh Ứng. Đứng ở đây du khách có thể phóng tầm mắt ra một vùng trời biển
bao la với các hoạt động nhộn nhịp của ghe thuyền trên biển. Ở đây cũng có một
tấm bia bằng đá Trà Kiệu, kích thước như ở Vọng Giang Đài, dựng vào năm Minh Mạng
thứ 18 (1837).
Chùa Linh Ứng ở ngọn Hạ Thai cũng là ngôi chùa có giá trị lịch sử cao, được xem
là quốc tự và di tích Phật Giáo. Từ tam quan chùa Linh Ứng có đường đi xuống
núi, rẽ phải sẽ gặp động Âm Phủ. Động cao, rộng, hình tròn sâu thẳm. Đường hang
quay về phía tây, vách lởm chởm đá, ẩm ướt, mát lạnh. Xuống khoảng 30m ta sẽ gặp
một hầm cao, ánh sáng vẫn lọt qua khe đá dọi vào. Lần qua những cột đá lớn ta sẽ
gặp một hang hẹp, lách qua ngách hầm còn có một vòm cao, một giếng sâu thông xuống
lòng đất.
Bãi
tắm Non Nước với các tố chất có được từ độ sóng, khí hậu, thời tiết, độ mặn...nên
phù hợp với các loại hình thể thao trên biển, nhất là môn trượt sóng (surfing).
Vào năm 1993, tại đây đã diễn ra cuộc thi trượt sóng quốc tế với sự tham dự của
gần 40 vận động viên đến từ nhiều nước trên thế giới. Đến với Non Nước, ngoài
việc nghỉ ngơi, tắm biển, du khách còn có thể kết hợp viếng thăm thắng tích Ngũ
Hành Sơn, nơi có những ngôi chùa cổ, các hang động, thâm nghiêm, hoành tráng; dạo
quanh làng đá mỹ nghệ ngay dưới chân núi hoặc làm một cuộc du thuyền trên sông
Cổ Cò để thả hồn cùng non nước Ngũ Hành Sơn.
Quản
lý và khai thác bãi tắm Non Nước hiện nay là Công ty Du lịch Non Nước. Công ty
có cụm 3 khách sạn gồm hơn 100 phòng nghỉ ngay trước biển và các dịch vụ tắm biển,
giải trí như: chụp ảnh lưu niệm, quầy bán hàng mỹ nghệ, massage, nhà hàng, sân
tennis và một số dụng cụ tập thể dục, vui chơi trên biển...Ngoài ra, thành phố
Đà Nẵng đã đưa vào hoạt động một khu du lịch liên hoàn bao gồm các loại hình
khách sạn, nhà hàng ven biển, khu chiêu đãi ngoài trời, phòng họp, phòng hội thảo,
hồ bơi, các sân tennis phục vụ du khách…
Các
tác phẩm nghệ thuật được trưng bày tại đây hầu hết đều có một cuộc đời chìm nổi
như chính số phận của nền văn hóa rực rỡ đã sản sinh ra nó. Từ trong đổ nát của
thời gian, chiến tranh và cả sự quên lãng của con người, những tác phẩm điêu khắc
Champa tuyệt vời đã được nhiều thế hệ dày công mang về đây. Và trong chỉnh thể
có tính hệ thống này, các công trình của các nghệ nhân Champa xưa lại có được một
đời sống mới. Đến bảo tàng, ta như thấy lại quá khứ vàng son của một dân tộc mà
lòng say mê và khả năng sáng tạo nghệ thuật đều ở một trình độ rất cao. Thế giới
thần linh kỳ bí, những câu chuyện bằng hình ảnh, các biểu tượng tôn giáo, đường
cong thân thể các vũ nữ, những bầu ngực căng tròn, nụ cười phảng phất nét thời
gian... tất cả đều sống động, chi tiết và gợi cảm vô cùng.
Vịnh
Đà Nẵng ăn lõm vào đất, có viền cát trắng bao quanh thành phố Đà Nẵng dưới chân
bán đảo Sơn Trà, phía Nam có mấy cụm của núi Non Nước. Trông xa kia, ngoài biển,
lố nhố mấy đảo nhỏ của Cù Lao Chàm. Tuỳ theo buổi sáng hay buổi chiều phong cảnh
nhuộm một màu sắc rực rỡ biến hiện trong giây lát giữa khung cảnh trời nước bao
la. Đến nghỉ mát ở đây, không gì thích thú bằng đi dạo quanh rừng men theo lối
đi hẹp, có tam cấp, ngoằn ngoèo, hay tựa lưng vào vách đá bên bờ khe, ào ào
tuôn nước vào vực sâu mất hút ở cuối đường; và hít thở khí lạnh kích thích mạch
máu, làm cho con người cảm thấy khoẻ khoắn, đầu óc tỉnh táo, minh mẫn hơn. Một
khi gác qua những điều lo lắng của cuộc sống náo nhiệt ở đô thị, du khách có thể
lần bước lên đỉnh núi, có vọng đài, phóng tầm mắt bao quát tứ bề ra tận chân trời
xa tít; hay khoan khoái nằm dài tắm nắng suốt buổi, lắng nghe tiếng vang vọng từ
trong rừng bên, tiếng líu lo lạ tai của các loại chim rừng chưa quen biết, tiếng
hú gọi bầy của lũ vượn, khỉ đang chuyền cành.
Bán
đảo Sơn Trà thuộc địa phận quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, cách trung tâm
thành phố 13km.
Bán đảo Sơn Trà có các bãi biển đẹp gần như còn nguyên sơ, nước trong xanh, cát
trắng mịn, sạch và rừng nguyên sinh với hệ động thực vật phong phú.
Ven biển của bán đảo Sơn Trà có nhiều bãi cát đẹp, trong đó có một số bãi tắm nổi
tiếng như bãi Bắc (phía bắc bán đảo), bãi Nam và bãi Bụt (phía nam bán đảo).
Sau lưng các bãi tắm này là rừng nguyên sinh với hệ động thực vật rất phong
phú, nhiều loài vật, cây cối thuộc loại quý hiếm như loài vượn má đỏ, vích đã
được đưa vào danh sách đỏ. Dưới các bãi biển này là các rặng san hô lớn và tuyệt
đẹp, rất thuận lợi cho việc phát triển các loại hình du lịch lặn. Hiện nay,
thành phố đang đầu tư tại đây khu du lịch Bãi Bụt với những ngôi nhà nghỉ trên
sườn núi, ven biển; các loại hình du lịch lặn, và trong tương lai sẽ xây dựng một
trung tâm hải dương học đồng thời phát triển thành một khu du lịch lớn với đầy
đủ các loại hình dịch vụ phục vụ du khách.
Những
năm gần đây, Đà Nẵng đã dần khôi phục và tôn tạo một số khu biệt thự cổ kiểu
Pháp, khu văn hoá Phật giáo, hầm rượu và hàng loạt khách sạn, biệt thự, quán
bar, sân tennis, cầu lông, bida...Tại đây còn thường xuyên tổ chức các đêm lửa
trại, quảng bá các đặc sản vùng núi và tạo điều kiện giúp du khách đi tham quan
dã ngoại. Từ đồi Vọng Nguyệt, du khách sẽ được hệ thống cáp treo hiện đại đưa đến
khu trung tâm. Hệ thống này có 16 cabin có thể phục vụ khoảng 320 khách/giờ.
Cá
cơm than được lựa chọn kỹ là loại cá tươi, không to quá hoặc nhỏ quá. Khi muối,
không cần rửa lại, vì trước khi lên bờ, cá đã được rửa bằng nước biển. Nếu rửa
bằng nước ngọt sẽ làm cá mất ngon, để lâu sẽ bị thối. Những thùng, chum, vại muối
phải làm bằng gỗ bằng lăng hoặc gỗ mít, mới đúng cách. Khi trộn cá chú ý, sao
cho cá thấm muối thật đều, không bị nát, xếp từ từ từng lượt vào chum vại, đựng
cá muối. Phía trên cùng đặt một lần vỉ đan bằng tre, hoặc mo cau khô gài lại. Đậy
nắp thật kín, đưa vào phòng tối, khô ráo, sạch sẽ, kín gió, giữ nhiệt độ vừa phải,
khoảng sáu, bảy tháng trộn cá muối lại. Khi nào lớp vỉ chèn xuất hiện lớp men mầu
trắng thì tháo vỉ, vớt lớp men ấy ra. Cá muối vào tháng ba, gần Tết âm lịch bắt
đầu lọc mắm, nhẹ tay lấy vỉ chèn ra, trộn đều mắm và dùng vải mịn để lọc mắm.
Nước mắm chảy từ từ, có mầu đỏ sậm như mầu cánh gián, mùi thơm tỏa ra đầy hấp dẫn.
Nhiều làng lân cận Nam Ô cũng chế biến loại nước mắm này, nhưng không thành
công. Theo những gia đình có truyền thống chế nước mắm Nam Ô thì việc chế biến
phải có bí quyết và đòi hỏi công phu, chỉ sơ ý là nước mắm mất ngon. Từ xa xưa,
nước mắm Nam Ô đã rất nổi danh. Ngày Tết, ngày lễ, người dân trong cũng như
ngoài tỉnh ai cũng muốn có chai nước mắm Nam Ô.
Với
chiều dài 6230m đèo Hải Vân chênh vênh một bên là núi rừng, một bên là biển cả,
đỉnh đèo mây phủ quanh năm nên còn được gọi là “đèo Mây”. Trong Phủ Biên tạp lục,
Lê Quý Đôn từng nhận xét: Hải Vân dưới sát bờ biển, trên chọc từng mây là giới
hạn của hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam. Trước đây, vào thế kỷ 13, vùng đất này
thuộc về 2 châu Ô, Rí của vương quốc Chămpa, được vua Chămpa là Chế Mân cắt làm
sính lễ cầu hôn công chúa Huyền Trân đời Trần. Ngay trên đỉnh đèo, dấu vết tiền
nhân vẫn còn để lại: những cửa đèo và thành lũy đắp ngang. Cửa trông về phủ Thừa
Thiên đề ba chữ “Hải Vân Quan”, cửa trông xuống Quảng Nam đề “Thiên hạ đệ nhất
hùng quan” (đây là từ đề tặng của vua Lê Thánh Tôn khi dừng chân ngắm cảnh nơi
này).
Trên
con đường xuyên Việt qua dải đất miền Trung đầy nắng gió, đèo Hải Vân lâu nay
đã trở thành nơi thưởng ngoạn lý tưởng của du khách vào Nam, ra Bắc. Từ Đà Nẵng
theo quốc lộ 1A về phía bắc, sau khi qua vùng Nam Ô, du khách bắt đầu lên đèo Hải
Vân. Đường đèo quanh co, khúc khuỷu men theo triền núi, uốn lượn như dải lụa vắt
ngang giữa trời mây. Gió như đàn ngựa giong ruổi dặm trường, mây như từ trên trời
tuôn xuống. Có những lúc mây nhiều che phủ cả đoạn đèo, quấn quýt níu lấy chân
du khách làm bước chân người đến đây như lạc vào cõi nào khác lạ, huyền ảo khói
sương. Cũng từ đây, vào những ngày đẹp trời, du khách có thể thấy rõ toàn cảnh
thành phố Đà Nẵng, Cảng Tiên Sa - Bán đảo Sơn Trà, Cù Lao Chàm... và những bãi
cát vàng chạy dài ôm lấy mặt nước bao la trong xanh của biển.