Trang
▼
TOUR MIỀN TRUNG ĐẶC SẮC NHẤT NĂM 2020 - 2021
▼
Danh Sách Các Dịch Vụ Tại Miền Trung
▼
Tài Liệu Thuyết Minh Quảng Nam
Quảng Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt
đới điển hình, chỉ có 2 mùa là mùa khô và mùa mưa, ít chịu ảnh hưởng của mùa
đông lạnh miền Bắc. Nhiệt độ trung bình năm 20 – 210C, không có sự
cách biệt lớn giữa các tháng trong năm. Lượng mưa trung bình 2.000 – 2.500 mm
nhưng phân bố không đều theo thời gian và không gian, mưa ở miền núi nhiều hơn
đồng bằng, mưa tập trung vào các tháng 9 – 12, chiếm 80% lượng mưa cả năm; mùa
mưa trùng với mùa bão, nên các cơn bão nên các cơn bão đổ vào miền Trung thường
gây ra lở đất, lũ quét ở các huyện Trà My, Hiên, Nam Giang và ngập lụt ở các
huyện đồng bằng.
Với
diện tích 1.040,6 nghìn ha, tỉnh Quảng Nam có 9 loại đất khác nhau, quan trọng
nhất là nhóm đất phù sa thuộc hạ lưu các sông, thích hợp với trồng mía, cây
công nghiệp ngắn ngày, rau đậu; nhóm đất đỏ vàng ở khu vực trung du, miền núi
thích hợp với cây rừng, cây công nghiệp dài ngày, cây đặc sản, cây dược liệu. Thực
trạng cơ cấu sử dụng đất cho thấy, việc sử dụng đất hiện nay ở Quảng Nam chủ yếu
vào nông nghiệp, lâm nghiệp. Trong thời gian tới, với sự tác động của công nghiệp
hoá sẽ có những thay đổi cơ cấu sử dụng đất. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để giữ
được quỹ đất nông nghiệp có năng suất cao, giữ được đất rừng có vai trò phòng hộ
và có thể sử dụng theo hướng bền vững những diện tích đất bằng và đồi núi chưa
sử dụng.
Theo
số liệu của Viện Điều tra quy hoạch rừng, diện tích rừng tự nhiên tại tỉnh Quảng
Nam còn khoảng 477 nghìn ha với trữ lượng gỗ khoảng 30 triệu m3 và
50 triệu cây tre nứa, trong đó rừng giàu có khoảng 10 nghìn ha, phân bố chủ yếu
ở các đỉnh núi cao, giao thông đi lại khó khăn; diện tích rừng còn lại chủ yếu
là rừng nghèo, rừng trung bình và rừng tái sinh trữ lượng gỗ trung bình khoảng
69 m3/ha, đường kính nhỏ chưa thể khai thác. Ngoài gỗ (sản lượng
khai thác có thể đạt trên dưới 80.000 m3/năm), còn có các loại lâm sản
quý hiếm như trầm, quế trẩu, song mây…Diện tích đất trống đồi trọc còn khoảng
391 nghìn ha, trong đó có 332,3 nghìn ha đất đồi núi có khả năng phát triển trồng
rừng, cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả và cây dược liệu.
Theo
số liệu thống kê của Viện Địa chất khoáng sản, ở Quảng Nam chưa được điều tra đầy
đủ về tiềm năng khoáng sản. Tuy nhiên theo đánh giá chung nguồn tài nguyên
khoáng sản của Quảng Nam là một tiềm năng đang được khai thác, mang lại hiệu quả
kinh tế cho tỉnh với nhiều loại đa dạng và phong phú. Trong đó đáng kể là than
đá ở Nông Sơn có trữ lượng khoảng 10 triệu tấn, vàng gốc và sa khoáng ở Bồng
Miêu, Du Hiệp, Trà Dương; cát trắng công nghiệp ở khu vực Bắc và Đông Bắc tỉnh.
Thêm vào đó, trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã thăm dò được 18 mỏ nước khoáng và
nước ngọt có chất lượng tốt. Các loại khoáng sản như khí mêtan, uranium, nguyên
liệu làm xi măng (đá vôi) được đánh giá là giàu nhất trong các tỉnh phía Nam.
Ngoài ra các khoáng sản khác như đá granit, đất sét, cát sợi titan, thiếc, cao
lanh, mi ca và các loại nguyên liệu cung cấp cho xây dựng, sành sứ, thuỷ
tinh…được phân bố tại nhiều nơi trong tỉnh.
Các
di sản văn hoá gắn kết với tài nguyên du lịch biển trong tổng thể Trung tâm du
lịch miền Trung: Huế - Đà Nẵng – Hội An đã tạo cho Quảng Nam khả năng phát triển
mạnh du lịch và dịch vụ. Hai di sản văn hoá thế giới là phố cổ Hội An, di tích
Mỹ Sơn và nhiều địa điểm di tích lịch sử và văn hoá (theo thống kê Quảng Nam có
khoảng 61 điểm du lịch) cùng với nhiều loại hình văn hoá (như hát tuồng, hát đối)
cùng với các quần thể kiến trúc khác như chứng tích Núi Thành,…tạo nên những điểm
du lịch thu hút khách đến tham quan, tìm hiểu. Những làng nghề thủ công mỹ nghệ
truyền thống độc đáo (làng đúc Phước Kiều, làng ươm tơ dệt lụa Mã Châu, làng mộc
Kim Bồng.) và những vùng ruộng, đồn, sông nước giữ nguyên nét điển hình của
làng quê Việt Nam, hội đủ các yếu tố phát triển du lịch đồng quê, du lịch vườn,
tạo thêm sức hấp dẫn đối với khách du lịch.
Khu
kinh tế mở Chu Lai có điều kiện giao thông thuận lợi để kết nối các địa phương
khác của Việt Nam và thế giới thông qua đường quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt,
đường biển qua cảng Kỳ Hà, đường hàng không qua sân bay quốc tế Chu Lai đã được
Chính phủ cho phép mở cửa bầu trời với 3 chức năng chính là trung chuyển hàng
hoá quốc tế, vận chuyển hành khách và sửa chữa, bảo dưỡng máy bay hạng nặng.
Định hướng phát triển Khu kinh tế mở Chu Lai là ưu tiên thu hút các ngành công
nghiệp nhẹ có khả năng kiểm soát ô nhiễm môi trường kết hợp với du lịch dịch vụ,
đô thị cao cấp. Khu kinh tế mở Chu Lai có Khu thương mại tự do đầu tiên của Việt
Nam được Chính phủ cho phép thành lập và hoạt động theo thông lệ quốc tế với tổng
diện tích khoảng 1.700 ha, nối liền sân bay quốc tế Chu Lai và cảng biển Kỳ Hà
theo mô hình 3 trong 1: sân bay - khu thương mại tự do - cảng biển; có 5 khu
công nghiệp tập trung với tổng diện tích 3.000 ha, nằm cạnh quốc lộ 1A và đường
sắt xuyên Việt rất thuận lợi về giao thông; có hơn 30 km chiều dài bờ biển với
cát trắng, nắng vàng là môi trường lý tưởng để xây dựng các khu du lịch, khu
vui chơi giải trí cao cấp; và đặc biệt có khoảng 10.000 ha đất phát triển các
khu đô thị, dân cư. Đây chính là những thế mạnh để kêu gọi đầu tư vào Khu kinh
tế mở Chu Lai.
Nhóm
tháp Khương Mỹ gồm 3 công trình kiến trúc xếp thành hàng ngang theo trục Bắc-Nam.
Đây là kiểu tháp Champa truyền thống với mặt bằng gần vuông, cửa ra vào ở hướng
đông, mái tháp gồm 3 tầng, tầng trên là hình ảnh thu nhỏ của tầng dưới, trên
cùng có chóp tháp bằng sa thạch. Mỗi tháp có một cửa ra vào và 5 cửa giả [2]. Vòm cuốn trên
các cửa uốn hình vòng cung, trang trí hoa văn thảo mộc cách điệu, đầu lá uốn
cong xoắn xuýt, lá xếp thành nhiều tầng, thu nhỏ dần lên trên, phần đỉnh của mỗi
vòm cuốn là một tổ hợp cành lá uốn thành hình lá đề. Trên mỗi mặt tường có 5 trụ
ốp tường trang trí hoa văn thảo mộc cuộn thành những chữ S nối tiếp nhau, xen kẽ
với các mảng tường trang trí hình thoi nối tiếp nhau từ chân đến đỉnh tường.
Nhóm Khương Mỹ gồm có 3 tháp, cửa ra vào ở hướng Đông, là kiểu tháp Champa truyền
thống với mặt bằng gần vuông, mái tháp gồm 3 tầng, tầng trên là hình ảnh thu nhỏ
của tầng dưới, trên cùng có chóp tháp bằng sa thạch.
Tại
Khương Mỹ, vào năm 1918, các nhà khảo cổ người Pháp đã tìm thấy một thành bậc cấp
bằng sa thạch có chạm cảnh hai người đang đấu vật, trong đó gương mặt của người
ở bên phải rất dữ tợn, miệng có răng nanh; một số nhà nghiên cứu cho rằng đây
là trích đoạn cảnh chiến đấu của Rama và quỷ vương Ravana trong trường ca
Ramayana. Được sự cho phép của Bộ Văn Hóa -Thể Thao, đầu tháng 7 - 2007, Trung
tâm Bảo tồn Di Tích tỉnh Quảng Nam đã phối hợp với khoa Sử Trường Đại học Khoa học
Xã hội & Nhân văn Hà Nội tiến hành khai quật phát lộ chân tháp Khương Mỹ để
chuẩn bị cho việc tu bổ di tích.Do tìm thấy nhiều tác phẩm điêu khắc mang tính
chất Vishnu giáo, lại vắng
bóng Siva và Brahma, nên một số nhà nghiên cứu cho rằng Khương Mỹ là một khu đền
thờ thần Vishnu. Tuy một số lượng tác phẩm điêu khắc ở Khương Mỹ không nhiều,
nhưng chúng thể hiện được sự chuyển tiếp từ những nét mạng mẽ, dữ dội của phong
cách Đồng Dương sang những nét nhẹ nhàng, trang nhã của phong cách Trà Kiệu, do
đó các nhà nghiên cứu đã xếp chúng vào phong cách riêng: Phong cách Khương Mỹ -
đầu thế kỷ X.
Trong
thời gian tới, thành phố Tam Kỳ tập trung phát huy lợi thế tiềm năng, đẩy mạnh
tốc độ phát triển kinh tế theo cơ cấu dịch vụ - công nghiệp – nông nghiệp. Phát
triển văn hoá – xã hội ngang tầm với vị thế trung tâm kinh tế - chính trị - văn
hoá của một tỉnh giàu truyền thống văn hoá và đấu tranh cách mạng, nâng cao chất
lượng đời sống nhân dân. Tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đô thị và
nông thôn, phấn đấu xây dựng Thành phố đạt các tiêu chí đô thị loại II, tập
trung xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh
đạo, chỉ đạo điều hành thống nhất, đồng bộ, có hiệu quả, giữ vững ổn định chính
trị, tăng cường an ninh - quốc phòng, đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
Nếu
từng ngang quốc lộ 1, ghé qua Tam kỳ (Quảng Nam), bạn sẽ nhận ra một đặc trưng
của thị xã này là quán cơm gà lấn lướt các quán khác. Trong hơn chục quán, quán
Cơm gà Bà luận 707 Phan Chu Trinh, Tam Kỳ (ĐT : 0510. 851 498) là nổi tiếng nhất
miền Trung vì lâu đời nhất, ngon nhất, sạch sẽ, vệ sinh và có chổ đậu xe hơi.
Chỉ cần ghé đến một lần bạn sẽ nhớ mãi hương vị đặt biệt “Ăn một lần nhớ mãi” của
cơm gà xứ Quảng miền Trung. Cơm Gà Bà Luận Tam Kỳ còn nổi tiếng hơn 50 năm
trong nước và thế giới, được báo chí nước ngoài khen ngợi rất nhiều.
Quán mở chi nhánh tại TP. Hồ Chí Minh,
số 43 B1 Chu văn An P. 26, Q. Bình Thạnh (ĐT : 511 0740, 899 7808) do
con gái đầu phụ trách. Các món ăn chính của quán phản phất hương vị của đất Quảng
miền Trung, không thể nhầm lẩn với các quán ăn Huế, Hà Nội hay các quán cơm gà
khác ở Sài Gòn.
Gà ta và một số nguyên liệu chính như hành, ớt khô, tỏi, dầu (xào lòng), trà được
chọn lọc và chuyển từ Tam Kỳ vào nhằm giử đúng “gu” cơm gà Bà Luận Tam Kỳ. Món
chính là cơm gà, mang đậm phong cách miền Trung, thiên về săn hạt cơm với gà luộc
chặt miếng, da vàng ươm, dọn với lá chanh xắt mịn đúng kiểu “con gà cục tác lá
chanh”, có thể nói thịt gà ở quán Cơm gà bà Luận thịt săn hơn, vị đậm hơn, chặt
ra giòn sắc hơn hẳn các quán cơm gà khác ở Sài gòn . Gà xé bóp gỏi với các vị
rau thơm, theo đúng khẩu vị xứ Quảng, thơm, hơi cay nồng hương vị của tiêu và
hành. Lòng xào với hương vị cay cay, ngầy ngậy và nước xốt mặn mòi khiến bạn có
thể chấm hết với cả đĩa rau sống. Dua chua gồm đu đủ chín hườm, hành hương tím
là một đặc sản nữa có lẽ chỉ có dân xứ Quảng mới nhận ra hương vị riêng của nó.
Để làm hài lòng quý khách, gà được quán chế biến thành 9 món với đầy đủ hương vị.
Ngoài ra, quán còn phục vụ cả cháo gà. Đặt biệt với Cà ry gà thơm, ngon, đậm
đà; Gà nấu cá mòi là sự kết hợp tuyệt vời của cá mòi và gà, hương vị mới lạ, đậm
đà, ngon tuyệt.
Đặt biệt ở đây giới thiệu với các bạn thêm một đặc sản nữa của xứ Quảng miền
Trung, đó là Nem nướng Tam kỳ được làm từ thịt heo nóng, nguyên chất 100%, thơm
ngon, không hàn the. Nem nướng Tam kỳ vị thịt đậm hơn, thơm và ngon hơn các loại
nem khác ở Sài Gòn. Nem được se tròn trên đủa tre, nướng lên thơm lừng ăn với
chuối chát, khế, rau thơm và ram, một đặc sản của Tam kỳ được làm từ bánh tráng
chiên dòn.
Phía
Bắc thành, đoạn sông Bà Rén làm thành rào bảo vệ vòng ngoài. Ở điểm cao khoảng
trên 20m là ngọn đồi Bửu Châu án ngữ. Xưa kia đường lên đồi là những bậc thềm
lót đá được trang trí thêm nhiều tượng thú vật, nhiều nhất là tượng voi, sư tử
đứng chầu. Các pho tượng này, ngày nay đã được đưa đến khuôn viên nhà thờ công
giáo Trà Kiệu, một số được chuyển về Bảo tàng Chàm Đà Nẵng. Phía Nam của thành,
dựa hẳn vào nhiều quả đồi sa thạch. Phía Tây có suối đổ về, trên ngọn con suối
này còn sót lại ngọn tháp đẹp có tên là tháp Chiêm Sơn. Tiếc thay ngọn tháp này
cũng bị hủy hoại.
Về điêu khắc đá của Simhapura cổ xưa có thể tìm thấy hình bóng rực rỡ của nó
qua phòng chính giữa của Bảo tàng Chàm Đà Nẵng. Đây là thời cực thịnh của Vương
quốc Chămpa từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 10 – 12 mà cả thành đô Mỹ Sơn và
kinh đô Trà Kiệu đều là minh chứng lịch sử nổi bật nhất. Nói đến Simhapura, trước
đây người ta thường nói đến ngôi đền chính trong Hoàng thành. Mỗi cạnh của nó
dài tới 10m, chiều cao có thể lên tới 40m. Nếu còn đến ngày nay, rõ ràng đây là
ngôi tháp đồ sộ nhất trong hàng kiến trúc Chămpa ở vùng Đông Nam Á. Trong đền
tháp này có một cái bàn thờ lớn hình vuông, mỗi cạnh 3m, cao 1,50m. Trên đó tạo
12 vũ nữ Apsara đứng múa trước dài sen. Bàn thờ đó đã trở thành kiệt tác trong
điêu khắc cổ xưa của thế giới còn lại tới hôm nay. Tất cả các đền thờ ở kinh đô
Trà Kiệu đều thờ thần Siva và Visnu là hai chư thần bảo hộ cho các Vương triều
Chămpa lúc bấy giờ.
Chủ
đề nổi bật của Trà Kiệu - Kinh thành Sư tử là các tượng đá Sư tử với nhiều tư
thế sống động : đi, đứng, ngồi, nằm phủ phục, vươn mình, nhe nanh... mỗi tượng
đều có bố cục độc đáo từ hình khối đến sắc thái biểu cảm trên đôi mắt, khối ngực,
bước chân khỏe khoắn, dáng đứng oai vệ... Mặt khác đây là sự hóa thân công đức
của Visnu, vì có lần đấng tối thượng này hóa thành Sư tử để bảo vệ loài người,
bảo vệ chư thần thoát khỏi nanh vuốt của quỷ dữ. Cũng qua những di chỉ tìm được
trong các cuộc khai quật khảo cổ sau này, người ta đã hình dung được vẻ đẹp kỳ
lạ của các kiến trúc Chăm về đền đài, cung điện, lâu đài, thành quách... đã làm
cho kinh đô Trà Kiệu thêm hấp dẫn để trở thành trung tâm giao lưu kinh tế - văn
hóa của Vương quốc Chămpa với các nước láng giềng như Cămpuchia, Inđônnêxia hồi
bấy giờ.
Bằng
vật liệu gạch nung và đá sa thạch, trong nhiều thế kỷ người Chăm đã dựng lên một
quần thể kiến trúc đền tháp độc đáo, liên hoàn: Ðền chính thờ Linga-Yoni biểu
tượng của năng lực sáng tạo. Bên cạnh tháp chính (Kalan) là những tháp thờ nhiều
vị thần khác hoặc thờ những vị vua đã mất. Mặc dù thời gian cùng chiến tranh đã
biến nhiều khu tháp thành phế tích nhưng những hiện vật điêu khắc, kiến trúc
còn lại cho đến ngày nay vẫn còn để lại những phong cách giai đoạn lịch sử mỹ
thuật dân tộc Chăm, những kiệt tác đánh dấu một thời huy hoàng của văn hoá kiến
trúc Chămpa cũng như của Đông Nam Á.
Mỗi thời kỳ lịch sử, kiến trúc mang phong cách riêng, cũng như mỗi đền tháp thờ
những vị thần, những triều vua khác nhau tạo nên đường nét kiến trúc đầy dấu ấn,
nhưng nhìn chung tháp Chàm đều được xây dựng trên một mặt bằng tứ giác, chia
làm 3 phần: Ðế tháp biểu hiện thế giới trần gian, vững chắc. Thân tháp tượng
hình của thế giới thần linh, kỳ bí mê hoặc. Phần trên cùng là hình người dâng
hoa trái theo nghi lễ hoặc hình cây lá, chim muông, voi, sư tử... động vật gần
gũi với tôn giáo và cuộc sống con người.
Trong nhiều công trình kiến trúc còn lại
khi phát hiện (1898) có tháp cao tới 24m, trong khu vực Tháp Chùa mà các sách
khảo cổ, nghiên cứu về Mỹ Sơn có ký hiệu là tháp cổ Chămpa, có 2 cửa ra vào
phía Ðông và phía Tây. Thân tháp cao, thanh tú với một hệ thống cột ốp. Xung
quanh có 6 tháp phụ, toàn bộ ngôi tháp 2 tầng toả ra như cánh sen. Tầng trên,
chóp đá sa thạch được chạm hình voi, sư tử, tầng dưới, mặt tường là hình những
người cưỡi voi, hình các thiên nữ thuỷ quái. Nhưng ngôi tháp giá trị này đã bị
không lực Mỹ huỷ hoại trong chiến tranh, năm 1969. Sau khi phát hiện ra khu
tháp cổ Mỹ Sơn, nhiều hiện vật tiêu biểu trong đó đặc biệt là những tượng vũ nữ,
các thần linh thờ phượng của dân tộc Chăm, những con vật thờ cũng như những cảnh
sinh hoạt cộng đồng đã được đưa về thành phố Ðà Nẵng đặt tại bảo tàng kiến trúc
Chàm. Tuy không phải là nhiều, nhưng những hiện vật này là những tác phẩm nghệ
thuật điêu khắc tiêu biểu, nó có giá trị văn hoá của một dân tộc, nhưng hơn thế
nữa, nó là những chứng tích sống động, xác thực lịch sử của một trong những dân
tộc trong cộng đồng Việt Nam giàu truyền thống văn hoá.
Hội An là một thành phố nhỏ nằm ở miền Trung
Việt Nam, thuộc tỉnh Quảng Nam. Hiện nay, Hội An có diện tích 6.000 ha diện
tích tự nhiên và dân số 121.716 nhân khẩu. Thành phồ gồm có 13 đơn vị hành
chính, trong đó 9 phường là: Minh An, Sơn Phong, Cẩm Nam, Cẩm Phô, Thanh Hà,
Tân An, Cẩm Châu, Cẩm An, Cửa Đại và 4 xã là Cẩm Hà, Cẩm Thanh, Cẩm Kim, Tân Hiệp.
Hội An có 7 km bờ biển với nhiều bãi tắm đẹp thuận lợi cho phát triển du lịch
và 01 ngư trường khá rộng với nguồn hải sản khá dồi dào, có đảo Cù Lao Chàm (rộng
1.591 ha) với nguồn đặc sản Yến Sào nổi tiếng, đồng thời là nơi rất thuận lợi để
phát triển du lịch sinh thái (Biển - Đảo).
Thành phố Hội An nằm ở vùng hạ lưu ngã 3 sông Thu Bồn thuộc vùng đồng bằng ven
biển Tỉnh Quảng Nam, cách Thành phố Ðà Nẵng về phía Nam 28 km.
Từ thế kỷ 16 đến 19, Hội An từng là trung tâm mậu dịch quốc tế trên hải trình
thương mại đông - tây, là một thương cảng phồn thịnh nhất của xứ Đàng Trong -
Việt Nam dưới triều đại các chúa Nguyễn bởi thương thuyền từ Nhật Bản, Trung
Hoa, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan … thường đến đây để trao đổi, mua bán hàng
hoá. Trong lịch sử hình thành và phát triển, Hội An đã được thế giới biết đến
dưới nhiều tên gọi khác nhau.
Phổ biến nhất là: Faifo, Haisfo, Hoài phố, Ketchem, Cotam… Các di chỉ khảo cổ
và các hiện vật, công trình kiến trúc còn lưu lại đã chứng minh Hội An là nơi hội
tụ, giao thoa giữa nhiều nền văn hoá: Chăm, Việt, Trung Hoa, Nhật Bản … trong
đó chịu sự ảnh hưởng nhiều nhất của văn hoá Việt và Trung Hoa.
Đến nay, khu phố cổ Hội An vẫn bảo tồn gần như nguyên trạng một quần thể di
tích kiến trúc cổ gồm nhiều công trình nhà ở, hội quán, đình chùa, miếu mạo, giếng
cầu, nhà thờ tộc, bến cảng, chợ… và những con đường phố hẹp chạy ngang dọc tạo
thành các ô vuông kiểu bàn cờ.
Cảnh quan phố phường Hội An bao quát một màu rêu phong cổ kính trông hư hư, thực
thực như một bức tranh sống động. Sự tồn tại một đô thị như Hội An là trường hợp
duy nhất ở Việt Nam và cũng hiếm thấy trên thế giới. Đây được xem như một bảo
tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị.
Ngoài những giá trị văn hoá qua kiến trúc đa dạng, Hội An còn lưu giữ một nền
tảng văn hoá phi vật thể khá đồ sộ. Cuộc sống thường nhật của cư dân với những
phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian, lễ hội văn hoá
đang được bảo tồn và phát huy cùng với cảnh quan thiên nhiên thơ mộng, các làng
nghề truyền thống, các món ăn đặc sản … làm cho Hội An ngày càng trở thành điểm
đến hấp dẫn của du khách thập phương. Tháng 12 năm 1999, UNESCO đã công nhận
khu phố cổ Hội An là di sản văn hoá thế giới.
Theo tài liệu thống kê, đến nay Hội An có 1.360 di tích, danh thắng. Riêng các
di tích được phân thành 11 loại, gồm: 1.068 nhà cổ, 19 chùa, 43 miếu thờ thần
linh, 23 đình, 38 nhà thờ tộc, 5 hội quán, 11 giếng nước cổ, 1 cầu, 44 ngôi mộ
cổ. Trong khu vực đô thị cổ có hơn 1.100 di tích.
Nằm cách Hội An 3km về hướng Tây, làng
gốm Thanh Hà từng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của
Ðô thị cổ Hội An. Vào thế kỷ 16, 17, Thanh Hà là một ngôi làng rất thịnh đạt, nổi
tiếng về các mặt hàng gốm, đất nung được trao đổi, bán buôn khắp các tỉnh miền
Trung Việt Nam. Chính những người thợ gốm Thanh Hà đã làm nên và cung cấp gạch,
ngói lợp, ngói lát nền cho các ngôi nhà cổ ở Hội An và các khu vực chung quanh.
Hiện nay, người dân làng gốm Thanh Hà đang làm đúng những công việc và theo
đúng cách cha ông họ đã làm trong những thế kỷ trước. Trong đôi bàn tay khéo
léo và điêu luyện của họ, những chiếc lọ hoa xinh xắn, những bình trà, bình rượu,
những chiếc ấm, bồng binh, những chum, lu, hũ, vại và cả những con vật thân
thương như trâu, Bò, mào, lợn... cứ lần lượt ra đời.
Cửa Đại mang vẻ đẹp "trẻ trung và
sống động" nên mới chớm hè đã đông nghìn ngịt người, trẻ con, người lớn,
khuôn mặt thật tươi tỉnh, khoan khoái. Tất cả đều thoả sức nô đùa và tràn ngập
trong những niềm vui.Không khí ở Cửa Đại rất trong lành và dịu nhẹ, tạo cảm
giác thư thái, an nhàn cho du khách. Có rất nhiều hình thức giải trí lôi cuốn ở
Cửa Đại và chắc chắn có một cái gì đó thật đặc biệt dành cho mỗi người. Khi
bình minh lên, từ những khu nhà nghỉ, du khách có thể mở cửa sổ có ban công hướng
ra biển để đón bình minh lên. Ngoài khơi xa kia mặt trời đang nhởn nhơ cùng với
mây với gió, thấp thoáng ngoài xa những cánh buồm nhỏ đi tìm những luồng cá mới,
báo hiệu một ngày mới tươi đẹp tràn về.
Cù lao Chàm là một cụm đảo xã đảo Tân Hiệp,
thành phố Hội An, tỉnh
Quảng Nam, nằm
cách bờ biển Cửa Đại 15 km. Cù lao Chàm bao gồm 8
đảo: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn Khô mẹ, Hòn Khô con, Hòn Lá, Hòn Tai, Hòn
Ông. Dân số trên các hòn đảo này gồm khoảng 3.000 người.
Khu di tích đô thị cổ nằm ở phía Nam
thành phố Hội An. Phố Lê Lợi hiện nay được xây dựng đầu tiên, sau người Nhật mới
xây tiếp những dãy phố này là đường Trần Phú còn gọi là phố cầu Nhật Bản. Đến
giữa thế kỉ 17, người Hoa sang xây dựng phố Quảng Đông tức phố Nguyễn Thái Học
hiện nay. Tiếp đến các phố Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thị Minh Khai
và một phố ven sông ở Hội An. Những phố trên đây với sông rạch, cầu đường,
đình, hội quán, miếu đền , nhà ở,… lưu dấu một tổng thể không gian đô thị cổ
xưa gần như nguyên vẹn.
Chùa Cầu là ngôi chùa nằm trên chiếc cầu
trong đô thị cổ Hội An, tỉnh Quảng Nam. Chiếc cầu này được các thương nhân người
Nhật Bản xây dựng vào khoảng thế kỉ 17, nên đôi khi người ta còn gọi là cầ Nhật
Bản. Theo truyền thuyết ngôi chùa này được coi như một thanh kiếm đâm xuống
lưng con quái vật mamazu, khiến nó không quẫy đuôi, gây ra những trận động đất ở
Nhật vì họ cho rằng đầu con quái vật nằm ở Ấn Độ, lưng ở Việt Nam và đuôi ở Nhật
Bản. Mỗi lần nó quẫy đuôi là nó gây ra những trận động đất kinh hoàng ở Nhật Bản.
Năm 1653, người ta dựng thêm phần chùa, nối liền vào lan can phía Bắc, nho ra
giữa cầu, từ đó người dân địa phương gọi là chùa Cầu. Năm 1719, chúa Nguyễn
Phúc Chu thăm Hội An, đã đặt tên cho chiếc cầu này là “ Lai Viễn kiều”, với ý
nghĩa là “bạn phương xa đến”. Theo niên đại được ghi lại ở xà nóc và văn bia
còn lại ở đầu cầu thì chiếc cầu đã được dựng lại vào năm 1817. Ngôi chùa óc lẽ
cũng được dựng lại vào thời gian này.
Chiếc cầu dài khoảng 18m, có mái che,
vắt cong qua lạch nước chảy ra sông Thu Bồn giáp ranh giữa hai đường Nguyễn Thị
Minh Khai và Trần Phú. Chùa Cầu là một trong những di tích óc kiến trúc khá đặt
biệt, mái chùa lợp ngói âm dương che kín cả cây cầu. Trên cửa chính của chùa Cầu
có một tấm biển lớn chạm nổi ba chữ Hán là “Lai Viễn kiều”. Chùa và cầu đều bằng
gỗ sơn son chạm trổ rất công phu, mặt chùa quay về phía bờ sông. Hai đầu cầu có
tượng thú bằng gỗ đứng chầu, một đầu là tượng chó, một đầu là tượng khỉ (có lẽ
được xuất phát từ ý nghĩa cây cầu được xây dựng từ năm Thân, hoàn thành năm Tuất).
Tương truyền đó là những con vật mà người sùng bái thờ tự từ cổ xưa. Tuy gọi là
chùa nhưng bên trong không có tượng Phật. Phần gian chính giữa thờ một tượng gỗ
Bắc Đế Trấn Vũ, vị thần bảo hộ xứ sở, ban niefm vui hạnh phúc cho mọi người, thể
hiện khát vọng thiêng liêng mà con người muốn gửi gắm cùng trời đất nhằm cầu
mong mọi điều tốt lành. Chùa Cầu mang tính chất một ngôi chùa Hoa kiều. Ở miền
Nam Việt Nam thường có các ngôi chùa Hoa, thực chất là đền thờ các vị thần hay
nữ thần.
Một điều dễ thấy là tất cả các ngôi
nhà cổ ở Hội An đều hình ống và lấy bộ sườn nhà làm cơ sở chịu lực. Bộ sườn ấy
được cấu thành bằng sự liên kết các vì kèo. Việc liên kết ấy được thực hiện bởi
các thanh xà, đó có thể là sự liên kết bằng những thanh dầm dọc gọi là kèo, kẻ
hoặc là liên kết bằng các thanh dầm ngắn xếp theo chiều ngang gọi là con rường. Nhà cổ Tấn Ký gồm nhiều nếp nối với
nhau, nếp thứ nhất có 6 hàng cột tạo thành 3 gian nhà, 2 gian hai bên và gian
giữa. Xuất xứ của những tảng đá tròn nằm bên dưới những cây cột kia được chở về
từ Thanh Hóa, chỉ có loại đá chắc khỏe này mới giúp cho những thanh cột tránh
được mục ruỗng, điều đó cũng lý giải vì sao đã mấy trăm năm nay, ngôi nhà cổ
này vẫn còn như nguyên trạng.
Còn các cột hiên hình vuông này lắp ghép với các thanh gỗ đây tạo thành mảng
tường mặt tiền vừa giữ chức năng che chắn mưa gió cho ngôi nhà vừa làm cho ngôi
nhà kín đáo hơn. Còn mí cửa gắn 2 con mắt kia là "hình xoáy âm dương lá đề",
đôi mắt của ngôi nhà cũng giống như đôi mắt của con người vậy, nó là thần thái
của ngôi nhà cổ, là niềm mong ước thương mãi phát đạt và đầm ấm đời sống gia
đình". Vì nóc ngôi nhà chia làm hai phần. Vì nóc sát hiên được kiến trúc
theo kiểu "cột trốn kẻ chuyền" (các cột được "trốn" bằng
cách "mọc" lên từ các thanh xà ngang) gồm 3 hàng cột cộng với hàng cột
hiên. Rồi kế tiếp hàng cột thứ 4 và thứ 5, kiến trúc theo kiểu "chồng rường
giả thủ" (các rường cột chồng lên nhau giống như bàn tay 5 ngón) được chạm
trổ tinh vi. Hàng cột thứ 5 và thứ 6 có kết cấu vì vỏ cua cong vồng lên in hệt
vỏ cua vậy.
Du khách có thể nhận biết rằng, nếp thứ hai chạy dọc theo sân trời (vì rằng
những ngôi nhà hình ống ở Hội An chung tường với nhau và ít có cửa sổ, để thông
thoáng cũng như tuân theo triết lí Tam Tài của người phương Đông, chủ nhân những
ngôi nhà này để một gian chính giữa đón lấy bầu trời gọi là sân trời) gồm hai tầng
kết cấu và cũng theo lối "chồng rường giả thủ" quen thuộc nhưng nhỏ
hơn, 2 cột vuông đứng trên tảng đá vuông với các tai cột chạm khắc hình con
sóc, hòm thư, quả lựu, quả phật thủ, con dơi.
Có thể nói thêm rằng các hình chạm khắc này đều có ý nghĩa biểu trưng của
nó như con dơi là biểu trưng về hạnh phúc; hòm thư: Học hành; quả lựu: Thật nhiều
con cái. Đi hết nếp 2, nếp 3 lại xoay ngang gồm 4 hàng cột ăn thông lên mái.
Mái lợp ngói âm dương rất dày nên thoáng mát về mùa hè, ấm áp vào mùa đông.
Từ nhà cổ Tấn Ký, ngôi nhà số 101 phố
Nguyễn Thái Học, rẽ lên chùa Cầu, đầu phố bên kia ngôi chùa cổ, số 4 phố Nguyễn
Thị Minh Khai là nhà cổ Phùng Hưng. Cũng như những ngôi nhà cổ khác ở Hội An,
nhà cổ Phùng Hưng hình ống gồm 2 tầng, với 3 nếp nhà. Từ cửa chính ngôi nhà đi
vào thấy 5 hàng cột chia ngôi nhà thành 3 gian, gian giữa rộng hơn có cửa chính
nhìn thông xuống bếp, các cây cột hình tròn đứng trên tảng đá hoa sen. Hàng cột
ngoài hiên lại có hình vuông đứng trên tảng đá hình vuông liên kết với nhau bằng
các vì vỏ cua chạm hình 2 con cá chép. Cửa gỗ thượng song hạ bản rất tiện lợi
cho việc che chắn mưa gió vào mùa đông và thông mát cho mùa hè. Vì nóc chính
làm theo kiểu cột trốn kẻ chuyền quen thuộc.
Nếp 2 của ngôi nhà cũng 2 tầng 3 gian nhưng chạy dọc ôm lấy phần sân trời với 4
cột tròn đứng trên tảng đá tròn nối với nếp 1 và nếp 3 như một hành lang. Nếp 3
cũng có vì nóc tương tự. Cầu thang lên tầng 2 đặt ở nếp này.
Có thể thấy, nhà cổ Phùng Hưng có kiến trúc Nhật Bản rõ nét, ngói âm dương trên
những nóc phố Hội An được "nối" với nhau nhờ vữa hồ và mật mía. Mật
mía mềm, tiết ra chất chua và đây là nguồn thức ăn không bao giờ vơi cạn của cỏ,
rêu và… cây xanh trên các mái phố trầm mặc Hội An.Về mùa hè, trên các mái phố
có màu thâm hơn vì cỏ đã ẩn mình vào ngói, và… chúng kiên nhẫn đợi cho đến những
ngày mưa nối nhau mới mạnh dạn bò ra xanh lên.
Chùa Ông được xây dựng năm 1653, đã qua 6 lần trùng tu vào các
năm: 1753, 1783, 1827, 1864, 1904, 1906. Chùa Ông có kiến trúc uy nghi, hoành
tráng, tại đây thờ tượng Quan
Vân Trường (một biểu tượng về trung - tín - tiết - nghĩa) nên còn có tên gọi
là Quan Công Miếu. Chùa Ông đã từng là trung tâm tín ngưỡng của Quảng Nam xưa,
đồng thời cũng là nơi các thương nhân thường lưu đến để cam kết trong việc vay
nợ, buôn bán, làm ăn và xin xăm cầu may.
Phố cổ Hội An hàng tháng vào ngày 1 vàngày 15 thường tổ chức đêm rằm phố cổ, tất cả các ngôi nhà trong phố cổ đều thắpđèn lồng, cấm xe máy và tổ chức cáchoạt động du lịch phong phú. Vào những ngày này, tất cả các đoạn đường đều cấmxe máy và hình thành nên phố đi bộ. Hiện nay, đêm rằm Phố Cổ được tổ chức địnhkỳ vào cuối tuần.