Ca Huế
là một thể loại âm nhạc cổ truyền của xứ Huế, Việt Nam, bao gồm
ca và đàn, ở nhiều phương diện khá gần gũi với hát ả
đào.
Nếu
kinh đô Thăng Long
xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân
gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh,
thì kinh đô Phú
Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn
ở Đàng Trong
phát tán thành một lối gọi là ca Huế
(gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người
Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong
tiến trình của một lối hát truyền thống [1] và tiến trình lịch sử từ
Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.
Ca
Huế mang sắc thái địa phương rõ nét bởi nó gắn chặt với đặc điểm ngữ âm ngữ điệu
của giọng nói xứ Huế, hoặc
nói một cách khác mang tính hệ quả là do mối quan hệ gắn bó với nền âm nhạc dân
gian - dân ca xứ Huế. Đây là một đặc điểm trong tiến trình phát triển của Ca Huế
và cũng là một đặc điểm của nền âm nhạc cổ truyền xứ Huế; nơi mà hai thành phần
âm nhạc: chuyên nghiệp bác học (nhã nhạc Cung đình, ca Huế),
thành phần dân gian (dân ca: hò,
lý...) thường xuyên tác động qua
lại, gắn bó, thâm nhập, thúc đẩy lẫn nhau với hiện tượng dân gian hóa ở âm nhạc
bác học và bác học hóa ở âm nhạc dân gian xảy ra liên tục trong quá trình phát
triển.
Dù
Ca Huế mang rõ nét tính chất đặc thù địa phương nhưng nó đã không chỉ bó hẹp
trong một xứ Huế. Ngoài yếu tố đặc thù và một số đặc điểm vốn có của mọi thể loại
nhạc cổ truyền thì nghệ thuật Ca Huế vẫn là khởi nguyên từ văn hóa nghệ thuật cội
nguồn Thăng Long,
hội tụ từ truyền thống văn hóa âm nhạc dân tộc. Vì vậy trong giai đoạn thịnh đạt
đã lan tỏa trở lại với cội nguồn, thâm nhập và trở thành một thành phần tương hợp
trong hầu hết dân ca vùng Trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Chẳng hạn: hơi Huế, giọng Lý, giọng
Kinh ở khối giọng Vặt, giọng Ngoại trong hát Quan họ, hát Xoan, hát Ghẹo, hát
Chèo v.v. Hướng phát triển về phía Nam của Ca Huế thì rõ ràng đã sản sinh ra lối
nhạc tài tử như nhà nghiên cứu Giáo sư Trần Văn Khê nhận xét: "lối
"nhạc tài tử" trong Nam là con đẻ của lối "ca Huế" miền
Trung".
Nói
là Ca Huế gắn với ngữ âm của giọng nói Xứ Huế, mà giọng Huế thì không chuẩn như
Hà Nội trong vấn đề xử lý các dấu giọng, nên với đặc tính "cạn và hẹp"
giọng nói Huế đã để lại dấu vết trong đường nét giai điệu Ca Huế một tính chất
đặc hữu, khác với dân ca nhạc cổ từ đèo Ngang trở
ra và từ Hải Vân
trở vào. Tuy vậy một số nhà nghiên cứu còn căn cứ vào sự giao thoa ảnh hưởng của
các truyền thống văn hóa khác trong lịch sử văn hóa Việt Nam cho rằng: điệu Nam
trong ca Huế do ảnh hưởng nhạc Chăm mà có.
Ca
Huế không phải là nhạc cung đình triều Nguyễn nhưng cũng không thuộc loại nhạc
dân gian". Với một hệ thống bài bản phong phú, cấu trúc phức tạp nhưng chặt
chẽ, hoàn chỉnh; những sắc thái tình cảm tinh tế cùng với những đòi hỏi khá phức
tạp đối với ca công về cách hát, đối với nhạc công về kỷ thuật diễn tấu nhạc cụ,
nên ca Huế thuộc về phạm trù âm nhạc cổ điển, bác học.
Ca
Huế có điệu thức Bắc và bốn sắc thái (quen gọi là hơi): hơi quảng, hơi đảo, hơi
thiền, hơi nhạc, có điệu thức Nam và bốn sắc thái: hơi xuân, hơi thương, hơi
ai, hơi oán. Giữa hai điệu thức Bắc và Nam có một sắc thái trung gian: hơi dựng.
Ca
Huế là một thể loại nhạc hát mang nhiều yếu tố chuyên nghiệp về cấu trúc và
phong cách biểu diễn, nhưng về nội dung âm nhạc của nó thì bộ phận đặc sắc nhất
lại chịu ảnh hưởng rõ rệt của Hò, Lý dân gian.
Ca
Huế mặc dù xuất phát tại cung đình nhưng nguồn gốc lại gắn bó với dân gian. Có
thể nói rằng, trong nền âm nhạc cổ truyền Huế thì ca Huế - bộ phận thứ hai của
dòng bác học - là nhịp cầu nối giữa cung đình và dân gian.